xứ hẻo lánh. Nơi đây họ bắt chúng tôi đi đào muối trong những hầm mỏ.
Một số người chết và một số sống sót.”
Naass tuột chiếc khăn trên vai xuống cho chúng tôi thấy những mảnh
thịt sần sùi, răn rúm, rõ ràng là những vết sẹo do những làn roi da để lại.
Prince vội vã khoác chăn lại cho hắn vì đó không phải là một cảnh đẹp mắt
gì.
“Chúng tôi sống một thời gian cực khổ tại đó. Đôi khi có người trốn
được về phía Nam, nhưng rồi đều phải quay lại, vì vậy, khi bọn người bị bắt
ở vịnh Yeddo chúng tôi nổi loạn vào ban đêm và tước được súng ống của
bọn gác, chúng tôi bèn đi về phía Bắc. Đất đai ở đó rộng mênh mông, với
những cánh đồng sũng nước cùng những rừng rậm bao la. Rồi mùa lạnh tới,
đất phủ dày tuyết, và không ai biết đường cả. Bao tháng trời khổ sở, chúng
tôi đi qua khu rừng hầu như bất tận – bây giờ tôi không nhớ được, vì thức
ăn thiếu thốn và đôi khi một vài người lăn ra chết. Nhưng sau cùng chúng
tôi tới được bờ biển lạnh lẽo, nhưng chỉ còn có ba người được trông thấy
cảnh đó thôi. Một người trong bọn giữ chức thuyền trưởng từ lúc rời Yeddo,
và gã thông thạo tất cả những vùng đất rộng và gã biết một nơi người ta có
thể đi qua tuyết để sang một vùng đất khác. Gã dẫn đường chúng tôi – lâu
lắm, tôi không biết là bao lâu nữa – cho đến khi chỉ còn hai người. Khi
chúng tôi tới nơi đó, chúng tôi gặp năm người lạ vẫn sống tại đó. Họ có chó
và da, nhưng chúng tôi chẳng còn có gì để đổi. Chúng tôi đánh nhau với họ
trên tuyết cho đến khi họ chết và ông thuyền trưởng cũng chết. Thành ra
chó và da đều thuộc về tôi. Sau đó tôi vượt qua vùng tuyết, nhưng tuyết bị
vỡ. Tôi trôi nổi trên biển mãi, sau nhờ một cơn gió từ phía tây thổi tới đưa
tôi lên bờ. Sau đó là vịnh Golovin, Pastilik, rồi gặp vị linh mục. Tôi tiếp tục
đi về hướng Nam, tới những vùng ấm áp mà tôi đã đi qua lúc ban đầu.”
“Nhưng biển cả không còn đem lại nhiều lợi nữa. Những người đi biển
để săn hải báo kiếm được ít lợi lại gặp nhiều nguy hiểm. Tàu bè thưa dần,
những thuyền trưởng cùng những thuỷ thủ đều không biết về hai người mà