mau, trước khi vàng làm mờ mắt chúng ta và làm chúng ta mất trí suy xét.
Như thế, sau này chúng ta có thể quay lại với nhiều thực phẩm hơn và lấy
tất cả số vàng.” Thế rồi chúng tôi tới xem mạch vàng ăn dọc theo bức vách
thung lũng, chúng tôi đo mạch vàng đó, vạch phía trên và phía dưới, lấy cọc
đóng để giữ chủ quyền và đốt những cây để làm dấu là vàng đã có chủ. Thế
rồi đầu gối run run vì thiếu thức ăn, bụng nôn nao, tim như muốn trào lên
miệng, chúng tôi leo lên bức tường hùng vĩ một lần cuối cùng và quay lại
đường về.
“Trong đoạn cuối chúng tôi dìu Unga đi, chúng tôi ngã luôn, nhưng sau
cùng cũng tới được chỗ giấu thức ăn. Nhưng kìa, chẳng còn gì cả. Tôi xếp
đặt thật khéo và hắn cho là bọn sói ăn mất, và hắn nguyền rủa chúng và
thần thánh của hắn luôn một hồi. Nhưng Unga rất can đảm, nàng cười và
đặt tay lên tay hắn, đến nỗi tôi phải quay đi để giữ cho lòng bình tĩnh. Nàng
nói: “Chúng ta sẽ nghỉ bên đống lửa cho tới sáng và chúng ta sẽ ăn da giày
để lấy lại sức.” Thế là chúng tôi cắt cổ những đôi giày thành những dải dài
và nấu đến tận nửa đêm để chúng tôi có thể nhai nuốt được. Tới sáng chúng
tôi bàn cách thoát. Chỗ giấu thức ăn tiếp ở đó cách xa năm ngày đường;
chúng tôi không thể tới được. Chúng tôi phải tìm thú săn.
”Hắn nói: “Chúng ta sẽ đi săn!”
Tôi nói: “Phải, chúng ta đi săn!”
“Hắn ra lệnh Unga phải ở lại bên đống lửa để dưỡng sức. Chúng tôi ra
đi, hắn đi tìm tuần lộc để săn còn tôi thì đi lại chỗ giấu thực phẩm mà tôi đã
chuyển đi nơi khác. Nhưng tôi ăn cầm chừng để họ thấy là tôi cũng không
khoẻ lắm. Đến tối trên đường trở về trại, hắn ngã lên ngã xuống. Tôi cũng
làm bộ yếu đuối lắm, luôn luôn vấp ngã làm như mỗi bước chân là bước
cuối cùng của tôi. Chúng tôi lại xẻo bớt da giày để ăn lấy sức.”
“Hắn là một tên cừ khôi. Tâm hồn hắn nâng đỡ thể xác hắn cho tới phút
cuối cùng; hắn không than khóc mà chỉ xót xa cho Unga. Ngày thứ hai tôi