Thế là cả nhà chồm dậy, ai nấy đều vớ lấy vũ khí, và cuộc ẩu đả bắt đầu.
Đâu đâu cũng chỉ nghe thấy tiếng kêu, tiếng gào, rồi tiếng súng nổ đì đẹt;
có điều là Kazbich cũng đã nhảy lên mình ngựa, và tựa như con quỷ sống,
hắn vung kiếm len lỏi giữa đám đông trên đường làng.
- Quýt làm cam chịu, chả hay ho gì đâu, - tôi kéo tay Pêtsôrin và nói. - Ta
chuồn sớm chả tốt hơn sao?
- Nhưng nán lại tí xem chuyện kết thúc thế nào đã?
- Đợi gì nữa, chắc chắn là tai hại rồi; đối với dân châu Á thì bao giờ chả
thế: nốc buda bí tỉ rồi chém giết lẫn nhau! - chúng tôi lên ngựa và phi về
pháo đài.
- Còn Kazbich thì sao? - Tôi sốt ruột hỏi ông thượng úy.
- Những hạng người như thế thì ai làm gì được chúng! - ông đáp và uống
cạn chén trà. - Vì hắn đã biến mất rồi!
- Và không hề bị thương tích gì ư? - tôi hỏi.
- Có trời biết được hắn! Ngữ ấy thì chúng sống dai lắm. Trong đời tôi đã
từng thấy nhiều kẻ như thế, ví như có thằng toàn thân đã bị lê đâm nát như
mặt sàng mà tay hắn vẫn cứ vung kiếm. - Sau một phút im lặng, ông
thượng úy giậm chân xuống đất một cái rồi nói tiếp:
- Nhưng có một điều làm tôi ân hận mãi: về đến pháo đài không biết ma
quỷ gì xúi giục tôi lại đem kể hết câu chuyện đã nghe lỏm được sau hàng
rào, với Pêtsôrin. Anh ta cười khì khì, - cái thằng ranh mãnh đến thế là
cùng, - nhưng trong đầu thì hắn đã toan tính gì rồi đó...
- Nhưng đó là chuyện gì, xin ông kể tiếp đi!
- Chà, biết làm thế nào được! Đã khơi ra thì phải nói tiếp thôi!
Bốn hôm sau Adamat tới pháo đài. Theo thói quen nó vào phòng
Pêtsôrin vì anh ta lần nào cũng đãi nó bánh kẹo. Tôi cũng đang có mặt ở
đó. Câu chuyện bàn đến ngựa và Pêtsôrin khen không tiếc lời con ngựa của
Kazbich, nào là nhanh và đẹp như linh dương, chà, cứ theo lời anh ta thì
trên đời này đó là con ngựa độc nhất vô nhị.