những nét chữ to tướng, chỉ rằng nó đã được dựng lên không những theo
lệnh của tướng Ermôlôp mà còn ghi rõ vào đúng năm 1824. Ghi thì ghi
nhưng câu huyền thoại vẫn cứ bám sâu vào đầu óc đến nỗi người ta, nói
cho đúng, là không biết tin vào cái nào, hơn nữa chúng ta lại không có thói
quen tin tưởng vào những đề từ.
Chúng tôi còn phải đi thêm khoảng năm dặm trên những vách đá phủ
băng và trong tuyết lầy mới tới được trạm Kôbi. Ngựa đã mệt lử, và người
thì rét cóng, cơn bão tuyết gầm rú mỗi lúc một dữ dội hơn, cũng giống như
những cơn bão ở miền Bắc chúng ta, có điều là ở đây tiếng kêu hoang sơ
của nó nghe rền rĩ, thê lương hơn. Tôi thầm nghĩ: “Và cả mi, kẻ tha phương
khóc thương miền thảo nguyên bao la, rộng lớn. Ðây là nơi mi tự do tung
cánh lạnh lùng, còn ở đây, mi cảm thấy chật chội, ngột ngạt như con đại
bàng hét vang đập đầu vào song sắt giam cầm”.
- Nguy to rồi, - thượng úy nói, - trông kìa: xung quanh mù mịt, chỉ thấy
mây mù và tuyết; - coi chừng kẻo chúng ta rất có thể lăn xuống vực hay rơi
vào rừng rậm, còn ở phía dưới nữa có lẽ là con sông Baiđara chảy siết đến
nỗi không tài nào qua được. Ôi, tôi cũng đến khổ với cái xứ châu Á này!
Không thể nào trông cậy được - sông chả ra sông người chả ra người.
Những người đánh xe mồm kêu la và rủa xả, tay quất mạnh vào mông
những con ngựa cứ thở phì phì, đứng ỳ ra và muốn gì thì cũng không chịu
cất bước, mặc cho những ngọn roi cứ ra sức hùng biện.
- Bẩm quan lớn, - cuối cùng một người đánh xe nói, - chiều nay chắc
chúng ta không tài nào đến Kôbi được đâu; liệu ngài có cho phép chúng tôi
rẽ trái, trong lúc còn có thể rẽ được không ạ? Kìa, ngài có thấy một vật đen
đen trên dốc núi kia không ạ - chắc chắn đó là những ngôi nhà xaklia, đó là
nơi khách qua đường bao giờ cũng trú chân mỗi khi gặp thời tiết xấu; họ
bảo rằng họ sẽ dẫn chúng ta tới đấy, nếu ngài thưởng cho họ ít tiền, - anh ta
nói thêm, tay chỉ mấy người Ôxetin.
- Ta biết rồi, chú mày ơi, chẳng cần chú mày ta cũng biết! - Thượng úy
nói, - bọn láu cá ấy chỉ tìm cách sinh sự để bòn rút tiền uống rượu là khoái.