trắng hiện ra, đến gần thằng mù và ngồi xuống cạnh nó. Thỉnh thoảng gió
thoáng tới tai tôi loáng thoáng những mẩu chuyện.
- Cái gì thế này, hả mù? - Tiếng một phụ nữ nói, - biển động dữ dội,
Iăngkô sẽ không tới được đâu.
- Iăngkô không sợ bão, - thằng mù đáp.
- Sương mù mỗi lúc một dày đặc, - tiếng người phụ nữ lại vang lên,
đượm một vẻ buồn.
- Trong sương mù, càng dễ tránh những con tàu tuần canh, - lại có tiếng
đáp.
- Nhưng nhỡ anh ấy chết đuối thì sao?
- Còn sao nữa? Chủ nhật, chị sẽ không có khăn mới để đi lễ.
Sau đó lại im lặng; thế nhưng có điều làm tôi ngạc nhiên là thằng mù hồi
nãy nói với tôi bằng thổ ngữ Tiểu Nga
nhưng lúc này lại nói bằng tiếng
Nga rất sành sỏi.
- Ðấy chị xem, tôi nói đúng mà, - thằng mù vỗ tay nói tiếp, - Iăngkô
không sợ biển, sợ gió, sợ mù, sợ lính đoan mà. Nghe xem, đó không phải
tiếng sóng vỗ, không lừa được em đâu, đó là tiếng mái chèo dài của anh ấy
đấy!
Người đàn bà đứng bật đậy, và bắt đầu nhìn ra phía xa vẻ bồn chồn.
- Mày lại mê sảng rồi, mù ạ, - cô ta nói, - tao không trông thấy gì hết.
Thú thật là tôi cũng cố căng mắt nhìn ra phía xa nhưng không thấy một
vật gì giống cái thuyền cả. Mười phút qua như thế; bỗng nhiên một chấm
đen hiện ra giữa những ngọn sóng cao như núi, khi to, khi nhỏ. Một chiếc
thuyền từ từ nhô lên trên đỉnh ngọn sóng, thoắt cái lại tụt xuống ngay để
mỗi lúc một gần bờ. Kẻ nào dám vượt qua eo biển rộng hai mươi dặm,
trong một đêm tối như thế này, kể cũng to gan thật; và cái lý do thúc đẩy
hắn ta hẳn phải là quan trọng lắm! Vừa nghĩ như thế tôi vừa ngắm chiếc
thuyền đáng thương kia, bất giác thấy tim mình đập mạnh: nó chao ngụp
xuống như một con vịt sau đó đôi mái chèo lại vùng vẫy nhanh nhẹn như
đôi cánh, đưa nó nhô ra khỏi vực thẳm giữa những đám bọt, và có lúc tôi đã