nở trên môi anh, - tất cả những nét đó tuồng như tương hợp nhau tạo cho
anh cái vẻ một con người đặc biệt, không tài nào bày tỏ được ý nghĩ và
những ham muốn của mình với những ai mà số phận đã trao cho anh để
làm bạn.
Anh can đảm, ít nói nhưng giọng rắn rỏi; anh không kể với một ai những
chuyện bí mật của gia đình và tâm tư tình cảm của mình; anh hầu như
không bao giờ uống rượu, không hề ve vãn những cô gái Kôdắc có vẻ đẹp
khó hình dung nếu chưa thấy bao giờ. Tuy nhiên người ta đồn rằng bà đại
tá lại không hề dửng dưng với cặp mắt tình tứ của anh; nhưng khi có ai nói
bóng gió tới điều đó thì anh nổi cáu thật sự.
Chỉ có một đam mê mà anh không hề giấu giếm là đánh bạc. Bên chiếc
bàn xanh anh quên tất, và thường là thua; nhưng những lần thường xuyên
đen bạc ấy càng làm cho anh cay cú hơn. Người ta kể rằng có lần, trong
cuộc hành quân ban đêm, anh ta đã ngồi ngay trên xe để cầm cái, canh bạc
ấy anh đỏ lạ lùng. Đột nhiên có tiếng súng nổ vang, báo động nổi lên, mọi
người đều chồm dậy và đâm bổ đến chỗ để súng. “Ðặt cửa đi đã!” - Vulich
vẫn ngồi yên lớn tiếng gọi một con bạc cay cú nhất trong bọn “Cửa bảy!” -
anh này vừa đáp vừa chạy ra ngoài. Mặc cho cảnh nhốn nháo chạy tứ tung,
Vulich vẫn trang xong bài và rút ra một con.
Khi anh có mặt trên chiến tuyến thì cuộc giao tranh đã trở nên ác liệt.
Nhưng Vulich không đếm xỉa đến đạn bay và kiếm xả của tụi Tsetsen: anh
còn mải tìm con bạc vận đỏ kia.
- Đúng cửa số bảy! - anh kêu lên, rút cục anh tìm thấy người này giữa
đám pháo thủ đang bắt đầu đốn kẻ địch ra khỏi rừng rậm, và anh tới gần,
rút hết ví to, ví nhỏ ra và trao cho người gặp vận dù anh này phản đối: đây
không phải là toán nợ nần. Khi đã làm xong cái bổn phận khó chịu ấy, anh
xông lên phía trước, lôi cuốn đội lao theo mình, và anh đã hết sức bình tĩnh
bắn nhau với tụi Tsetsen cho đến phút cuối cùng của cuộc chiến.
Lúc trung uý Vulich đến gần bàn, mọi người im bặt, chờ đợi ở anh một
trò tinh nghịch độc đáo.