không học cách để mắng tôi một cách nhã nhặn còn tôi có lẽ sẽ không
tin lời hăm dọa cho ăn tát được diễn đạt bằng câu cú chuẩn.
Phép lịch sự giữa cha mẹ và con cái đối với tôi là một điều bí ẩn
trong một thời gian dài. Tôi cũng mất hàng năm trời mới “hiểu” được
sự tử tế quá mức mà những người được giáo dục tốt thể hiện qua lời
chào đơn giản. Tôi đã thấy xấu hổ, tôi không xứng đáng với chừng ấy
sự quan tâm, tôi đã đi đến mức tưởng tượng ra một thiện cảm đặc biệt
dành cho mình. Sau đó tôi nhận ra là những câu hỏi đặt ra với vẻ quan
tâm cấp thiết ấy, những nụ cười ấy, chẳng có ý nghĩa hơn là khi ăn
không gây tiếng ồn hoặc xì mũi một cách kín đáo.
Giờ đây sự giải mã các chi tiết này đối với tôi là bắt buộc, càng hơn
nữa khi tôi thấy cần thiết phải đẩy lùi chúng, chắc chắn về sự vô nghĩa
của chúng. Chỉ duy ký ức nhục nhã mới có thể làm cho tôi lưu giữ
chúng. Tôi khuất phục trước ham muốn của thế giới nơi tôi sống, vốn
ra sức làm cho các vị quên đi ký ức về thế giới dưới thấp cứ như đấy
là thứ gì đó thể hiện thị hiếu tầm thường.
* * *
Khi tôi làm bài tập ở bàn trong bếp, vào buổi tối, ông lật các trang
sách, đặc biệt là sách lịch sử, địa lý, khoa học. Ông thích tôi đặt những
câu hỏi hóc búa. Một hôm, ông bảo tôi đọc chính tả cho ông viết, để
chứng tỏ với tôi là ông viết đúng chính tả. Ông chẳng bao giờ biết tôi
học lớp mấy, ông thường nói “Nó ở chỗ cô đó”. Trường học, một
trường dòng theo mong muốn của mẹ tôi, là một thế giới khủng khiếp
đối với ông, giống như hòn đảo Laputa trong Những cuộc phiêu lưu
của Gulliver, bồng bềnh trôi nổi phía trên tôi để chi phối tất cả cử chỉ
điệu bộ của tôi: “Đẹp mặt nhỉ! Giá mà cô giáo mày nhìn thấy!” còn
nữa: “Tao sẽ đi gặp cô giáo mày, để cô dạy mày biết vâng lời!”
Ông toàn nói trường học của mày và phát âm rời ra ký-túc-xá, bà-xơ
kính mến (tên của bà hiệu trưởng), trong khi tách rời từ, ở cửa miệng,