Ở Nam Vang được yên ổn hơn Sài gòn, ngày đêm tự do, không có cấm
đoán gì cả, chỉ phải nóng nực khó chịu. Tôi lên đây nhờ có ông Phạm Chí
Tùng và mấy người khác cho mượn sách vở, nhất là những sách vở nói về
đạo Phật và đạo Ấn Ðộ, tôi xem cũng nguôi được nhiều điều phiền não.
Mỗi khi trời mát mẻ, chiều đến tôi chống cái gậy ra đứng bờ sông trông
nước chảy, mà nghĩ cuộc đời cũng xoay vần trôi nổi có khác gì dòng nước
chảy xuôi.
Cuộc đời của tôi đi đến đấy đối với người ngoài cho là thật hiu quạnh,
song tự tôi lại thấy có nhiều thú vị hơn là những lúc phải lo toan làm công
việc nọ kia, giống như người đóng tuồng ra sân khấu, nhảy múa nhọc mệt
rồi hết trò, đâu lại vào đấy. Ðàng này ngồi yên một chỗ, ngắm rõ trò đời và
tự mình tỉnh sát để biết cái tâm tình của mình. Tôi nhớ lại câu cổ nhân đã
nói: "Hiếu danh bất như đào danh, đào danh bất như vô danh". Muốn có
danh không bằng trốn danh, trốn danh không bằng không có danh.
Người có trí tuệ mà biết giữ mình ở chỗ vô danh là bậc cao sĩ tuyệt bậc,
nhưng mình đã trót đeo lấy cái danh vào mình, thì phải tìm cách trốn danh
vậy.
Danh với lợi ở đời là những cái mồi nó dử mình vào cạm bẫy để hành hạ
cái thân mình, chung quy chỉ là một cuộc mộng ảo, chẳng có gì là thực. Khi
đã mắc vào thì lắm lúc lại phải đi vào những nơi hôi thối, phải bưng mắt bịt
mũi, thật là khổ.
Tôi nương náu ở đây chờ cho tình thế yên yên, thì thu xếp về bắc, là nơi
có bà con, bạn bè để khi vui buồn có nhau, còn hơn là chỗ xa lạ.
Ðến tháng ba năm 1949, thấy ông Bảo Ðại đã điều đình với chính phủ
Pháp công nhận nước Việt Nam được thống nhất và độc lập trong khối liên
hiệp Pháp, đại khái theo cái nguyên tắc ông Bảo Ðại và tôi đã đưa cho
người Pháp khi chúng tôi còn ở Hương Cảng. Giá hai năm trước, chính phủ
Pháp đi hẳn vào con đường ấy, có lẽ đỡ được bao nhiêu thì giờ và sự tổn