hại. Song cái tính con người ta bao giờ cũng thế, cứ để cho đến khi bất đắc
dĩ mới chịu làm những việc phải làm, còn thì cứ muốn bám lấy cái lợi một
lúc, rồi cứ xoay quanh mãi thành ra hư hỏng việc lớn. Lòng tham của người
ta không có bờ bến, nếu không đem cái lòng công minh chính trực mà ngăn
ngừa lòng tư dục, thì thường hay có những sự tàn ác, gây ra nhiều nỗi đau
buồn.
Việc ông Bảo Ðại điều đình đã được kết quả, như thế cũng đã lợi cho
nước Việt Nam rồi nhưng đó mới là phần giao kết, cần phải chờ đợi sự thực
hành xem có đúng lời giao kết hay không.
Khi sự độc lập và sự thống nhất đã thực hiện rõ ràng rồi, thì ông Bảo Ðại
phải có cái chính sách cương quyết và biết lựa chọn lấy những người ngay
chính đứng đắn ra giúp ông mà làm mọi việc. Nếu lại để cho những người
muốn thừa cơ hội mà làm giàu làm sang, thì khó lòng mà đem lại lòng tín
nhiệm của dân chúng. Việc thành bại sau này, là một bên ở cái lòng thành
thực của người Pháp, một bên là cái chính sách ngay thẳng của ông Bảo
Ðại.
Tôi nay già rồi, không có hăng hái làm được việc gì nữa. Tôi chỉ mong
được yên ổn, để về nghỉ ngơi cho trọn tuổi già, ấy là cái sở nguyện chân
thực của tôi. Vả trong quãng đường tôi vừa đi qua, trải bao những cảnh
huống đau buồn khổ sở, may như Trời Phật cứu giúp, tôi duy trì được đến
bây giờ, mà không trụy lạc vào đâu cả, thật là cái phúc lớn vậy. Cho nên tôi
thường nhớ bài thơ của một nhà thi sĩ Ấn Ðộ mà người ta dịch ra tiếng
Pháp như sau này:
La barque à la dérive Au millieu du fleuve de vie, Périlleux et fouetté de
vent, Ma barque, sans rames, ballotte, Flottait à la dérive, Mais ton
invisible main, Secourable dt pitoyable, A giudé la barque sans voiles
Parmi les rochers, au milleu des orages, Jusqúau rivage de sécurité