từ ngữ đó cũng chỉ định một nghĩa mà thôi: việc cố gắng đi tìm sự đồng
thuận, sự thỏa hiệp, vẽ ra một mô hình trao đổi và đôi khi là cộng tác lâu dài.
Tôi cũng vô cùng cảm ơn Thời Báo Kinh Tế Sài Gòn đã tặng tôi cơ hội
viết một số bài về thương thảo trong những năm qua. Tôi không ngờ những
bài được đăng lại gây phản ứng tốt và rộng rãi như vậy, nhất là trong giới
kinh doanh, thậm chí sau khi 6, 7 bài đã được đăng tải xong, có khá đông
bạn muốn tôi viết thêm. Do đó, sách sẽ đăng (hoặc trích) cả những bài này
được viết lại dưới hình thức chỉn chu hơn.
* * *
Dưới một góc độ nào đó thì có thể khẳng định thương thuyết là một việc
ai cũng phải làm hàng ngày, hàng giờ. Sống trong xã hội, người với người,
trong sự bon chen, trong một khung cảnh kinh tế dựa trên sự trao đổi làm
căn bản, thì việc thương thuyết không thể tránh được. Lên xe buýt tìm chỗ
ngồi, mua quả táo, chơi với con cháu… toàn là những tình huống sẽ đưa tới
một cuộc thương thuyết to nhỏ với người lái xe, bà bán trái cây hay những
đòi hỏi của con cháu, nói chi đến việc mua nhà sắm xe. Đến khi vào công
sở, thăng quan, tiến chức, lên lương đều là những lúc phải thương thuyết
khéo léo, thậm chí là gay go… Kể cả chuyện lập gia đình, hỏi vợ lấy chồng
chẳng qua cũng là thương thảo đấy thôi.
Nhưng khác với những hành vi kể trên, thường chúng ta phải thương
thuyết với những người không quen từ trước mà vẫn phải sắp sửa có sự trao
đổi nào đó với họ, phải gây một sự tín nhiệm nào đó trong giây lát, hay nhận
thực hiện một cam kết nào đó trong khoảnh khắc.
Xã hội ngày nay không có chỗ cho người trốn tránh việc này. Mình muốn
tránh giao thiệp cũng không được. Không có sự trao đổi ngoài xã hội là
không có sự sống. Ngày xưa nếp sống xã hội khác. Thái độ dè dặt với kẻ lạ
là chuyện bình thường. Thời đó người ta không có nhu cầu trao đổi như
ngày hôm nay, rất đông người thấy “khớp” nếu chẳng may phải gượng gạo
trò chuyện với người ít quen biết, nói chi đến đàm phán.