kết hợp 64 cách biến đổi của 8 nhóm ký hiệu được biểu lộ như những đoạn
que (bằng xương) ngắn và dài, tượng trưng cho âm và dương. Những mối
quan hệ nhất định của những đoạn que xương này mang những ý nghĩa khác
nhau. Sáu lần dương (que xương dài) là biểu tượng của nguyên lý Tạo Hóa.
Sáu lần âm (que xương ngắn) là sự Tiếp nhận.
Sau này người ta sử dụng những biểu tượng này để bói bằng các nhánh cỏ
thi (achillea millefolii). Toàn bộ hệ thống này tượng trưng cho một thế giới
khóa kín. Hệ thống này là một trong những tổng hợp xưa giống như sách
Kabbala của dân Do Thái, như sách về chiêm tinh học hoặc lí thuyết số học.
Việc viết thành văn bản các hình ảnh tượng trưng và ý nghĩa của nó là
một cuộc cách mạng mà đẳng cấp (kaszt) tinh thần lớn nhất ở Trung Quốc
phản đối đến cùng (theo cáe truyền thống cổ đẳng cấp (kaszt) là đẳng cấp
cao nhất trong trật tự xã hội cổ, mang tính chất tinh thần - ND). Đây là một
trong những cuộc khủng hoảng lớn đầu tiên của thời kì (gọi là) thời kỳ tiền
lịch sử.
Ý nghĩa tượng trưng của các hình ảnh được viết lại dưới hình thức sutra.
Cuốn sách được Khổng Tử cứu vãn tương đối muộn. Hoàng đế VŨ và con
trai viết chú giải cho Kinh Dịch, và như vậy cuốn sách được mở rộng và
không bị đứt đoạn. Lời bình luận xưa cuối cùng là tác phẩm của Khổng Tử.
Lúc này cuốn sách về mặt ngữ pháp cũng trở nên dễ hiểu với cả những
người chưa nhập định.
Rất có thể những cuốn sách khác như Vedanta, Brahmana, Bundahisn,
Sánkhja cũng xuất hiện như vậy. Rất ít cuốn giữ được hình thức gốc ban
đầu, ví dụ như Joga-sutra của Patandzsali hay Sánkhja-karika.
Những từ ngữ thoạt trông không liên quan đến nhau trong câu kinh mang
tính chất tiếp cận huyền bí, giống như điều người ta mong muốn thực hiện
trong thơ cổ nhân loại thời lịch sử - nhưng rất ít khi được thực hiện. Bởi vì
thơ cổ của thi sĩ La Rochefoucauld tẩy rửa hết những điều thừa trong nó, so
với sutra vẫn là một sự lải nhảỉ. Và sự khác biệt không nằm trong đặc trưng
hình thức. Ngôn ngữ cô đọng, nghiêm chỉnh và có sức mạnh không thể bì
kịp với ngôn ngữ của sutra.