Bí ẩn cuối cùng cùa sutra là cái nó đưa ra không phải là khái niệm và hình
ảnh, nghĩa là không liên quan gì đến kiến thức duy lí cũng như huyền thoại.
Sutra là sự tiếp xúc siêu hình nguyên thủy, dùng để đánh thức. Đây là sự tiếp
xúc trực tiếp của người Thầy của Đời sống. Thiếu việc tiếp xúc với sự tỉnh
táo không thể thấy bất cứ cái gì trong truyền thống cổ. Dấu hiệu đặc điểm
thức tỉnh cơ bản của sutra là bằng chìa khóa cần thiết, chạm vào tâm linh
người đọc và lay thức họ.
Sutra phần lớn, cho dù được tập hợp từ nhiều từ, đều thiếu một từ cho một
câu hoàn chỉnh. Nếu để làm thức tỉnh cần sáu từ, sutra chi đưa ra năm. Từ
thứ sáu là chìa khóa, hoặc người Thầy trao, hoặc cần phải đi tìm. Hoặc như
vậy vẫn hiểu được, có thể nhầm lẫn hoặc có thể hiểu ngược lại.
Chừng nào tia chớp thức tỉnh chưa làm người ta hiểu ra, chừng đó con
người không giải mã được sutra. Bởi tia chớp là căn nguyên. Đây là tia lửa
bùng lên mà Platon nhắc đến trong lá thư thứ 7. Nội dung sâu xa nhất của
sutra luôn luôn siêu hình và tuyệt đối. Nội dung hình ảnh thần bí là thứ yếu.
Ngữ pháp tuyệt nhiên không có. Đôi khi sutra vang lên như một lời tiên tri,
hoặc như một sự tưởng tượng. Püthia từng nói như thế, các nhà thơ từng viết
như thế, thánh thần thường tuyên bố như thể.
5.
Sách cổ không thể dịch ra ngôn ngữ châu Âu hiện đại không phải vì rào
cản ngữ pháp, mà vì những từ ngữ của sách cổ hoàn toàn thiếu hụt trong
ngôn ngữ châu Âu. Thiếu hụt vì ngôn ngữ cổ là hệ thống kí hiệu vũ trụ, còn
ngôn ngữ châu Âu là những công cụ thể hiện cái tôi cá thể.
Châu Âu ngày nay, trừ trường hợp ngoại lệ, tất cả những từ ngữ có ý
nghĩa và mang tính chất phổ quát đều phải vay mượn từ hai thứ ngôn ngữ vũ
trụ cuối cùng là tiếng Hi Lạp và Latin.
Ngôn từ mang tính siêu việt của tinh thần là Hi Lạp và Latin. Những từ
ngữ mang tính chất tổng quát đều hoặc là Hi Lạp hoặc là Latin. Bằng hai
ngôn ngữ này tinh thần vũ trụ của truyền thống được thể hiện. Các ngôn ngữ