có của ngôn ngữ. Bời ngôn ngữ không thể tùy tiện chọn lựa.
Giữa các ngôn ngữ nhiều ý tường nhất phải kể đến tiếng Sanscrit. Tiếng
gần gũi với chúng ta nhất là Hi Lạp. Đây là thứ ngôn ngữ biết gọi tên những
nhân tố thế gian trong bản chất tuyệt đối của chúng, nói cách khác: biết gọi
tên một cách chính xác. Cái gì đã hiển thị bằng tiếng Hi Lạp, đều mang tính
chất hình ảnh tượng trưng.
Tư tưởng không phải việc của cái TÔI cá thể mà là của cái TÔI tinh thần
vũ trụ. Nếu cái TÔI cá thể suy nghĩ, có thể thấy ngay tự bản thân nó tách rời
khỏi sự vật. Nó tưởng rằng nếu nó đứng tách xa một khoảng cách nhất, định
và từ đó nhìn sự vật, nó sẽ thấy sự thật. Thực ra như vậy nó chỉ nhìn thấy
một cách trừu tượng.
Tư tưởng cần khoảng cách, tiêu chuẩn và sự tỉnh táo. Nếu ai tỉnh mới thấy
bản chất, và nếu ai nhìn thấy bản chất, người đó có thể chính xác. Sự chính
xác chí nảy sinh từ cách nhìn phổ quát vũ trụ. Những tín hiệu siêu hình,
những hình ảnh huyền thoại đều chính xác.
Cái nhìn chính xác là cái Platon tuyên bố trong siêu hình-ý tưởng; là cái
hiện diện trong lí thuyết số học của Pythagoras, trong chiêm tinh học của
người Chaldea, trong Kinh Dịch, trong thuyết giả kim, trong tư tưởng của
Böhme hoặc Baader, trong tác phẩm của một vài nhà thơ châu Âu lớn như:
Shakespeare, Molie, Keats, Hölderlin, George, Rilke.
Nằm ngoài hệ quy chiếu này, cùng lắm chỉ còn sự trừu tượng, còn đại đa
số là một sự nhiễu loạn. Không còn là những tín hiệu hoặc hình ảnh nữa, mà
chỉ là các khái niệm. Nền tảng của khái niệm là sự trừu tượng; còn sự trừu
tượng giống như sự không tưởng: từ sự thật, từ bản chất, từ tổng quát, từ
toàn bộ, từ sự sống củng không tưởng nốt.
6.
Đặc trưng hình thức của sách cổ là sự nhập định, đặc trưng của nội dung
sách cổ là siêu hình học. Vai trò cộng đồng của con ngưòi là sự duy trì hoạt
động của chủ thể thần thánh thời cổ: sự đánh thức. Sách cổ, khi chủ thể thần
thánh không còn nữa, đã trở thành người Thầy của Đời sống.