không liên quan gì đến đời sống,
Hoạt động của con người hiện đại không tạo dựng, không mang tính tích
cực, mà là thứ hoạt động rỗng, phi bản chất, yếu ớt, chỉ thu hẹp, đóng khung
tinh thần lại, trong nhiều trường hợp còn làm biến mất tinh thần. Sự lí tưởng
hóa văn hóa, đối nghịch với việc ứng dụng hóa hành động, bởi vậy hiện thực
và thực hành vắng bóng trong sự lí tưởng hóa này.
Khả năng canh tác tích cực thế giới vật chất ở đây hoàn toàn không nổi
lên. Tinh thần không chạm tới đời sống và đời sống cũng chẳng chạm tới
tinh thần. Không có khả năng cho quá trình hiện thực hóa.
Một mặt là sự trừu tượng hóa lí tưởng, mặt khác, không tìm ra mối quan
hệ của tính thần với sự thực hành đã vật chất hóa thô thiển, bởi con người
hiện đại không sống trong tinh thần đồng nhất với tình yêu thương, mà chỉ
sống trong cái TÔI riêng của nó. Về điều này, bàn thế là đủ.
2.
Con người thời lịch sử, nhất là thời hiện nay sống trong một sự nhầm lẫn,
rằng sự canh tác đích thực tự mình cần tạo ra, mục đích tự mình cần lập ra,
tiêu chuẩn tự mình cần xây dựng, và các lí tưởng tự mình cần nghĩ ra. Họ
quay cái TÔI của họ vào việc đi tìm tinh thần, mục đích, tiêu chuẩn và các lí
tưởng. Sau đó gọi sự tìm kiếm những thứ họ tự đặt ra là văn hóa.
Họ không biết rằng: tinh thần của canh tác tích cực thế giới vật chất
không cần tìm kiếm.
Ngay từ thuở ban đầu, tinh thần như một lời tuyên ngôn đã có sẵn, và nếu
như nó không được gìn giữ trong các cuốn sách thiêng đi chăng nữa, nó vẫn
được giữ như tình cảm bất biến bất tử của linh hồn con ngưòỉ.
Cần phải làm gì, cần tiếp tục hoạt động gì, cần duy trì tiêu chuẩn nào, cần
thực hiện những lí tưởng nào, điều này cái tinh thần của tình yêu thương
trong con người đều biết đến từ sự vĩnh cửu.
Các sức mạnh trong con người có đâu phải để tìm ra một tinh thần mới.
Và điều này cũng không thể; một tinh thần mang tính chất cá nhân chỉ là sự