Nguyên lí tạo dựng nên trật tự sống, và bởi vậy nếu không được hiện thực
hóa, không mang ý nghĩa gì. Lí thuyết xây dựng, hoặc ít nhất mang ý đồ xây
dựng; nguyên lí tạo lập, và sự tạo lập lớn hơn sự xây dựng. Con người lí
thuyết chỉ nhận biết, còn con người nguyên lí nhìn.
Lí thuyết không phải là nguyên lí bị tha hóa, như lí tưởng bị tha hóa của ý
tưởng và tôn giáo bị tha hóa của quan điểm. Các lí thuyết một mặt tuyên bố
sự ưu tiên của các lí thuyết, mặt khác tuyên bố sự ưu tiên của thực hành.
Trong nguyên lí không có sự khác biệt giữa lí thuyết và thực hành.
Nguyên lí dựa trên yếu tố, rằng không có sự xác định nào thiếu vắng tầm
vóc của hiện sinh và hậu quả đạo đức.
Lí thuyết không có mức độ, bởi vậy không duy trì được những gì trừu
tượng hoặc cụ thể. Chỗ đứng của lí thuyết là khoa học và triết học, còn chỗ
đứng của nguyên lí là nghệ thuật và tôn giáo.
Kẻ nào xây dựng một nguyên lí, kẻ đó cần thay đổi toàn bộ đời sống của
mình.
Con người hiện đại sống giữa các quá độ. Ý tưởng, và câu hỏi, và lí
thuyết. Họ có khoảng ba loại lí thuyết: chủ nghĩa Darwin (Darwinizmus) chủ
nghĩa Freud (Freudizmus), và chủ nghĩa Marx (Marxizmus).
Nền tảng của chủ nghĩa Darwin, như Betrand Russell đã giải thích, đơn
giản là một sự nhầm lẫn. Darwin đưa tư tưởng cơ bản của một nhà lí thuyết
kinh tế Anh thế kỉ mười tám vào quá trình sinh học, theo đó thiên nhiên
bằng con đường ngắn nhất và những công cụ đơn giản nhất kiếm tìm lợi ích
lớn nhất.
Chúng ta đều biết quan niệm cho rằng đời sống thiên nhiên dựa trên
những nguyên lí cơ bản của kinh tế học là một sự nhầm lẫn. Logic của thiên
nhiên tuyệt đối không mang tính chất cần kiệm, trái lại mang tính thừa thãi,
và bởi vậy thiên nhiên không kiếm tìm lợi ích lớn nhất, mà không ngừng
cung cấp sự dồi dào (theo Bataille).
Chủ nghĩa Freud và chủ nghĩa Marx gây khó chịu không chỉ vì như chọc
tức mà vì nó khiến người ta nghi ngờ, chúng sinh ra không để làm gì khác
ngoài việc làm con người bực bội. Ẩn giữa các điều kiện của các chủ nghĩa