luôn luôn chỉ là một kẻ xa lạ bên cạnh người nó yêu. Con người không bao
giờ hiểu thật sự về một thực thể sống, nhưng đôi khi còn có cảm giác là nó
không hiểu.'"
Đây là sự thiếu hụt của mối quan hệ với một "sự sống" lớn hơn, đây là
một kẻ đọc sách khi ăn, là chiều Chủ nhật cô đơn của đô thị, là sự đơn độc
xã hội; không phải là kết quả của thế giới quan, không phải hạng thái thi ca,
không là bệnh tật, không là sự mâu thuẫn cũng chẳng phải trạng thái hiện
sinh: đây là sự cô đơn sinh ra từ sự thiếu vắng xã hội: sự cô đơn như một
hiện tượng đại chúng.
6.
Chung sống biến mất, khi cô đơn xuất hiện, cô đơn chỉ biến mất nơi sự
chung sống phục hồi. Đây là ý nghĩa của sự cô đơn đô thị của Byron,
"lonely place" của Wordworth, là trạng thái vừa ăn vừa đọc của Rousseau,
cũng giống hệt như con người hiện đại luôn vùi đầu vào sách báo, sự chung
sống đã chấm dứt, ngay cả trong cái cô đơn anh hùng cũng vậy.
Nhưng có một hiện thực nơi cô đơn mất hiệu lực. Hoàn cảnh này trước
hết có trong thiên nhiên, hay nói đúng hơn trong các nguyên tử cổ đại, thông
qua đó là một cộng đồng nguyên sơ. Trong lối sống nguyên thủy, trong một
hiện thực du mục hoặc săn bắn chưa từng có nỗi đe dọa cô đơn. Khuynh
hướng tách biệt ngầm ẩn trong các mối quan hệ sống hoàn toàn bị loại bỏ.
Không phải quyền lợi chung loại bỏ điều này. Quyền lợi chưa bao giờ là nền
tảng hiện sinh.
Đây là một tổ chức tự nhiên trong quá trình sống tổng quát: con người là
một sinh vật của tổ chức trái đất lớn với trọng lượng, vai trò, sự sống riêng
cùng chung sống với môi trường, bằng công việc, bằng gia đình, với cộng
đồng người, với đất, không tranh chấp, tự bản thân nó hình thành một ý
nghĩa tổ chức.
Chỉ nơi nào có sự chung sống hoàn thiện cả về mặt cụ thể lẫn siêu hình, ở
đó khả năng cô độc mới chấm dứt. Cái spengler gọi là "Kulturseele" (Văn
hóa tâm hồn), Frobenius gọi là "Paideuma" là một tâm hồn cộng đồng được