đình kể cả đại uý Haralan và bà Roderich, theo mệnh lệnh của tôi bà phải
rời giường bệnh của con gái bà.
Chúng tôi bắt đầu từ nóc nhà. Chúng tôi nắm tay nhau dàn hàng ngang đi
từ đầu này đến đầu kia. Chúng tôi xét hết các phòng, không bỏ sót một góc
nhỏ nào và không bỏ sót giữa chúng tôi một khoảng cách đủ cho một người
chui lọt. Chúng tôi vén màn, dời ghế, khám dưới gầm giường và trên đầu
tủ. Khi làm những việc ấy, chúng tôi không rời nhau ra dù chỉ một giây.
Khám xong một phòng như thế, có người đóng ngay cửa lại và giao chìa
khoá cho tôi giữ.
Làm công việc nầy chúng tôi phải mất hơn hai giờ, nhưng cuối cùng rồi
cũng hoàn tất, và chúng tôi đã đến cửa ngoài, chắc chắn, tuyệt đối chắc
chắn rằng không một người lạ mặt nào có thể ẩn trong biệt thự. Cửa ngoài
nầy lại được cài then và tôi cất chìa khoá vào túi. Từ nay không ai được vào
nhà nếu không được tôi cho phép, và tôi hứa sẽ làm mọi cách để không một
kẻ nào, dù hắn có vô hình đến trăm ngàn lần, lại có thể lẻn vào cùng lúc với
người khách được tôi nhận diện và tiếp đón.
Và đương nhiên, bắt đầu từ giờ phút nầy chỉ có tôi mới có quyền trả lời
những khách đến gõ cửa. Để làm tròn nhiệm vụ của gác cửa, tôi chỉ định
đại uý Haralan phụ tá tôi, hoặc khi anh đi vắng thì một gia nhân thân tín đi
phụ tôi. Đầu tiên cánh cửa chỉ mở hé, rồi để cho người phụ đứng chặn lối
bên trong, tôi theo chỗ hé mở chui ra và chặn lối bên ngoài. Người khách
được mời vào ư? Cả ba người cùng đi lùi từng bước, người nọ sát người
kia, trong khi cánh cửa từ từ đóng lại.
Hiển nhiên chúng tôi hoàn toàn an ninh trong ngôi nhà đã biến thành
pháo đài như thế.
Tôi biết có lời phản đối và phản đối chính đáng. “Biệt thự của chúng tôi
đáng gọi là nhà tù hơn là pháo đài”. Đúng vậy, nhưng vẫn có thể chịu cảnh
lao tù khi nó không vĩnh viễn kéo dài. Thế nhưng, cảnh lao tù của chúng tôi
có kéo dài không? Tôi không nghĩ thế.