“Ừ, đúng vậy,” ông nói, mỉm cười.
“Còn mặt kia thì sao?” tôi hỏi.
“Cái gì?”
“Bố nói, ‘Một mặt, bố không muốn suốt đời cô đơn’.”
“À, ừ. Mẹ kiếp. Bố không nhớ nữa. Mất tiêu rồi.”
“Có lẽ chẳng có gì ở mặt kia.”
“Ừ, có lẽ.”
Tôi quan sát đôi mắt bố dõi theo cô ả tóc vàng khi cô ta rời quầy bar đến
một bàn toàn phụ nữ. Cô ta hẳn đã nói gì đấy về chúng tôi, vì tất cả bọn họ
đều nhìn sang, và trông có vẻ rõ ràng họ đang thầm nhổ nước bọt lên bố tôi.
Bố giả vờ uống cái ly rỗng. Toàn bộ cảnh tượng này khiến tôi thấy phát ốm,
vì vậy tôi xoay một mắt trở lại phòng treo áo khoác và mắt còn lại đến cái
miệng giết người màu thâm tím thô lỗ của gã sinh viên kiến trúc. Tôi tưởng
tượng gã ở trong một phòng làm việc trên cao, nhìn xuống một nghìn thi thể
và những cánh tay màu bạc của cây cầu gãy.
Chiếc áo trùm mũ vẫn treo ở đấy, giết thời gian. Trời đã tối muộn. Tôi mệt
mỏi. Mi mắt tôi muốn sụp xuống.
“Ta đi được chưa ạ?”
“Mấy giờ quán bar này đóng cửa?” bố hỏi các nhân viên pha chế rượu.
“Khoảng sáu giờ.”
“Đ. mẹ,” bố nói với tôi, và gọi thêm ly nữa. Rõ ràng ông sẽ không về nhà cả
đêm nếu cần. Mà tại sao lại không chứ? Chẳng có ai ở nhà thức đêm để chờ
đợi chúng tôi. Chẳng có vầng trán nào nhăn lại vì lo lắng. Chẳng có đôi môi
nào chờ đợi để hôn chúng tôi trước khi đi ngủ. Chẳng có ai nhớ chúng tôi
nếu chúng tôi không về nữa.