“Ngày đầu tiên bố gặp gã ở Paris gã đề nghị cho bố tiền, rồi gã giới thiệu
việc làm cho bố. Rồi gã tìm giúp bố một công việc. Rồi sau đó gã theo bố
đến nước Úc này và cho bố tiền để nuôi con. Không nhiều, khi này một
trăm, khi khác một trăm, nhưng gã cứ giúp bố mãi.”
“Nghe như anh có một người bạn rất tốt,” bác sĩ Greg nói.
“Ông biết cái gì chứ?” bố vặc lại.
Nói chuyện phiếm thế này đủ rồi, tôi nghĩ. Tôi đi đến gần bố và cố gắng thì
thầm vào tai ông lần nữa. “Bố, con cần bố phải ra khỏi đây. Họ tống con
vào một mái ấm.” Ông chẳng nói gì, và lật đến mê cung cuối cùng trong
quyển sách rồi bắt đầu tìm đường đi. “Nguy hiểm lắm. Có gã đã giở trò bỉ
ổi với con,” tôi nói điêu.
Ông vẫn không nói gì, chỉ chun mặt lại bực bội, không phải vì lời nói dối
chối tai của tôi, mà vì câu đố ông giải không ra.
“Martin,” bác sĩ Greg xen vào, “anh không muốn nhìn con trai mình à?”
“Tôi biết mặt mũi nó thế nào rồi,” bố đáp.
Rõ ràng sự tầm thường vụn vặt của bác sĩ Greg đang làm bố ngạt thở. Ông
bác sĩ đang giẫm lên lãnh địa tối tăm của tinh thần bố với đôi ủng lấm bùn,
đạp lên mọi thứ, chẳng hiểu được gì. Như tôi đã nói, bố muốn được một
người học về Freud hoặc Jung thăm khám, và nếu không có thêm chứng cứ
gì về đầu óc loạn trí của ông, thì chuyện cứ chờ một thiên tài chưa được
phát hiện sẽ chết dần chết mòn ở đây trong cái chốn tồi tàn do nhà nước
quản lý này đã đủ làm bằng chứng rồi.
Ông vẫn đang vò đầu bứt tóc với cái mê cung cuối cùng. Cây bút chì của
ông vẽ xuyên qua nó, nhưng ông cứ đi đến ngõ cụt. “Cái khốn kiếp gì thế
này?” ông nói. Ông nghiến răng to đến nỗi chúng tôi cũng nghe được.
“Martin, sao anh không dẹp quyển sách đi và nói chuyện với con trai anh?”