người nhỏ bé. Thỉnh thoảng ban giám hiệu lại gửi cho bố những lá thư
nghiêm trọng, hài hước một cách không chủ ý về sự chuyên cần của tôi.
“Mới nhận được thư nữa,” bố thường nói, vẫy vẫy nó trong không khí như
một tờ 10 đô la mà ông vừa tìm thấy trong một chiếc quần cũ.
“Thì sao?”
“Thì con có gì để nói không?”
“Năm ngày một tuần là quá nhiều. Nó vắt kiệt sức con.”
“Con không cần phải là đứa giỏi nhất xứ, con biết chứ. Chỉ cần học làng
nhàng. Đó chính là điều con nên nhắm đến.”
“Ôi, thì đấy chính là việc con đang làm. Con đang làng nhàng đây.”
“Tuyệt. Chỉ cần đảm bảo rằng con đến trường đủ số buổi để có được mảnh
giấy mang tên con trên đó.”
“Để làm cái quái gì chứ?”
“Bố đã bảo con hàng nghìn lần rồi. Con cần làm cho xã hội nói rằng con
đang hòa nhập. Chuyện gì con thích thì để sau này hẵng làm, nhưng con cần
làm cho họ nghĩ rằng con là một người trong số họ.”
“Có thể con chính là một người trong số họ.”
“Ừ, còn bố thì sẽ đi làm lúc bảy giờ sáng mai.”
Nhưng không phải lúc nào ông cũng để yên chuyện này. Thực ra thì, tôi đã
có một tiếng tăm nhất định trong các thầy cô vì những chuyến thăm đáng sợ
nói chung và đáng xấu hổ nói riêng của bố mình. Khuôn mặt ông thường
bất thình lình xuất hiện, dán chặt vào lớp kính lạnh buốt của cửa lớp học.
Một ngày sau khi tôi cho bố xem bài văn Hamlet, ông đến lớp học tiếng
Anh của tôi và ngồi vào ghế ở cuối lớp, co rúm người cho lọt vào chiếc ghế
gỗ. Thầy White vừa viết chữ “sự liên văn bản” lên bảng thì bố đi vào, vì thế