sau đó anh đi ra ngoài, trong khi cuộc đời chìm lỉm hoặc vùng vẫy, và làm
cho bản thân thoải mái hơn một chút. Trong liên doanh, lợi nhuận của bọn
anh chẳng lớn lắm, nhưng bọn anh cũng kiếm được kha khá, và bọn anh có
thể sống như những ông hoàng vì Thái Lan rẻ như bèo!”
Một sự im lặng kéo dài sau đó, chẳng ai biết phải nhìn đi đâu.
“Nước Úc yêu quý chú mày,” cuối cùng bố lên tiếng.
“Và họ ghét anh,” Terry đáp.
Dù đường đời rẽ hai lối - hai con đường ít người đi đối ngược nhau - nhưng
hai anh em bố đã cùng đi đến một đoạn kết, Terry, theo lẽ thường, thông
qua sự giác ngộ và khúc nhau tẩy sạch của cơn sang chấn tinh thần suýt
chết, còn bố thông qua hồi tưởng, suy nghĩ và ám ảnh một cách lý trí về cái
chết. Terry vô học, người đàn ông mà bố từng mô tả là không thể viết được
cả tên mình trên tuyết bằng nước tiểu, đã bằng cách nào đó biết trước những
cái bẫy của nỗi sợ chết và thong dong tránh sang một bên, như thể chúng là
những cục phân chó trên đường phố thắp đèn sáng choang. Ngược lại, bố đã
lý trí nhận ra những cái bẫy nhưng vẫn tìm cách rơi vào từng cái một. Phải,
tôi có thể nhìn thấy ngay điều đó trên mặt ông. Bố đã tiêu đời! Terry đã
sống theo chân lý của cuộc đời bố, còn bố thì chưa bao giờ, dù nó là chân lý
của ông.
“Vậy bây giờ chuyện gì xảy ra?” bố hỏi.
“Mọi người ở với tôi. Tất cả mọi người.”
Chúng tôi nhìn nhau, biết rằng đó là một ý nghĩ tồi tệ nhưng chúng tôi
không còn lựa chọn nào khác. Chẳng ai cử động. Chúng tôi giống như một
bộ lạc ăn lông ở lỗ và cái hang của chúng tôi vừa mới sập. Khi mắt tôi nhìn
từ bố sang em trai ông, tôi nghĩ: Những tội phạm và triết gia chuyên nghiệp
đều có một số lượng điểm chung đáng ngạc nhiên - họ đều không hòa hợp
với xã hội, đều sống theo luật lệ của riêng mình chứ quyết không thỏa hiệp,
và đều là những hình mẫu phụ huynh bê bối. Vài phút trôi qua, và dù không