rỗng bị lật úp. Rõ ràng nhà chức trách đã lục soát để tìm kiếm manh mối về
tung tích của bố và nơi ông cất giấu tiền. Mọi mét khối bụi bẩn đều bị
choán chỗ bởi những món đồ vô giá trị của bố. Tôi cảm thấy như đang bị
một cơn đau tim nhẹ khi lần mò qua mê hồn trận của những món đồ đồng
nát. Nỗi lo lắng bất an mà ông thổi vào từng món đồ vẫn không mai một.
Tôi có thể ngửi thấy mùi nỗi bất mãn căng thẳng của ông khắp mọi nơi. Tôi
có ảo giác như mình đang đi loanh quanh trong đầu của bố.
Đó thực sự là một bãi đất hoang. Tôi cảm thấy như mình vừa đặt chân lên
những lục địa chưa được khám phá - ví dụ như, một quyển sổ to màu xanh
dùng để vẽ phác thảo khiến tôi cắm cúi xem hàng giờ liền. Bên trong là
những thiết kế và bản vẽ nháp cho những loại máy kì quặc không thể tin
nổi: một cái máy chém tự chế, một cái bong bóng bằng nhựa lớn có thể xếp
lại dùng để đeo trên đầu để bạn có thể hút thuốc trong phòng vệ sinh của
máy bay, một cái quan tài hình dấu chấm hỏi. Tôi cũng tìm thấy một cái
hộp chứa khoảng ba mươi đến bốn mươi tiểu thuyết học trò cũng như tự
truyện dang dở của ông, và dưới đó là một bản thảo do ông viết tay có nhan
đề “Tình yêu giờ cơm trưa,” một câu chuyện buồn nôn về tình yêu không
được đáp lại viết cho những bé gái mười ba tuổi. Tôi cảm thấy hoàn toàn
lạc lối. Tôi cảm thấy mình đang lần đầu tiên gặp thêm một vài con người
che giấu kĩ của ông. Ngay cả trước khi ý tưởng viết một quyển sách về ông
nảy đến với tôi, ngay cả trước khi tôi đặt bút viết một dòng, tôi đã nhận ra
mình là kẻ ghi chép kém nhiệt tình của ông. Điều duy nhất mà tôi là am
tường chính là bố tôi. Giờ đây dường như có một cuộc đời của ông mà tôi
chưa hề biết. Bằng cách này ông đã chế giễu tôi cả sau khi chết.
Người bảo vệ xuất hiện ở khung cửa và hỏi, “Cậu làm ăn trong đấy sao
rồi?” Tôi không biết nên trả lời kiểu đặt câu hỏi ấy như thế nào, dù tôi đáp
rằng tôi vẫn đang xem.
“Nếu thế thì tôi sẽ để cậu ở đấy,” ông ta nói, và để tôi ở đấy.