thường niên” - tức là một quần kaki, sơ mi trắng bên trong, áo vest thô bên
ngoài, đội một chiếc mũ bê-rê của những người già Paris, và chống một cây
ba toong màu vàng. Vì trông ông có vẻ không phải làm gì ngoài thưởng
thức buổi chiều tối mùa hè Paris, tôi tiến tới lễ phép nói:
“Bonsoir monsieur
[18]
…”
[18] Chào ông
Tôi mới nói đến đây thì “vị tư sản già sống bằng lợi tức thường niên” đã
lập tức nhăn mặt và quả quyết xua tay:
“Non! Non!”
Phải. Tất cả các sách du lịch đều đã cảnh báo tôi rằng người Paris, nhất
là người già, không ưa gì khách du lịch, nhất là khách Mỹ
[19]
; nhưng mà tôi
rõ ràng không phải da trắng, cũng không mặc quần soóc, áo phông, đi giày
thể thao, bụng không có mỡ chảy xệ, và tôi cũng không có “chỉ trỏ cười nói
thô bỉ” như nhiều du khách Mỹ. Tôi sốc đến nỗi thành thật là tôi đã rơm
rớm nước mắt, đồng thời muốn thụi cho vị tư sản già một quả vào bụng.
Sao mà tôi lại ngu xuẩn và ngây thơ đến mức tin rằng tôi có thể đến Paris
một mình và đinh ninh rằng thành phố này có một chỗ dành cho tôi. Có lẽ
Paris mà tôi mơ tưởng, Paris của Hugo đã chết từ lâu rồi. Nghĩ thế, tôi lùi ra
một quãng và cố thở đều để lấy lại tinh thần rồi giở bản đồ với quyết tâm sẽ
tự tìm lấy đường về khách sạn thay vì trông chờ vào lòng tốt của dân Paris
hoa hòe hoa sói.
[19] Cũng không thể trách họ vì mỗi năm, Paris đón tới hơn 40 triệu khách du lịch, khiến cho
thành phố trở nên quá chật chội bởi khách du lịch.
Chắc trông tôi loay hoay với cái bản đồ rất tội nghiệp và hẳn đã thấy tôi
rơm rớm nước mắt nên Bụt lập tức hiện ra – dĩ nhiên là dưới vỏ bọc một
quý bà Paris ngoài sáu mươi tuổi, vô cùng thanh lịch. Đây hẳn là người phụ
nữ đẹp lão nhất mà tôi từng gặp: nước da bà trắng mịn, khuôn mặt thanh tú,