Nhưng tôi ra khỏi cửa được vài bươc, tôi đứng lại, rồi cứ từ từ quay đầu
hướng về phía Nhà thờ Đức Bà Paris. Tôi đã không thể cưỡng lại, như thể
có một bàn tay vô hình nào đó dẫn dắt. Vậy là tôi đi dọc con đường bờ
sông, băng qua cây cầu trước cửa Hôtel de Ville để tới Nhà thờ Đức Bà.
Từ bên ngoài và từ đằng trước, Nhà thờ Đức Bà không mấy ấn tượng.
Hai tháp chuông và mặt tiền của nhà thờ có một vẻ trần trụi không ăn khớp
với tưởng tượng của tôi; do thế trông lại khang trang, sang sủa đáng thất
vọng do màu vôi sáng. Thêm vào đó, từ sớm và trời tuy lất phất mưa nhưng
rất nhiều khách du lịch đã xếp hàng và ngồi khắp quảng trường phía trước
nhà thờ - tất cả đều toach toách làm dáng để chụp ảnh khiến cho toàn bộ
tưởng tượng mấy chục năm nay của tôi về Nhà thờ Đức Bà cứ bị những cái
chớp máy ảnh và những nụ cười nhiếp ảnh xé nát.
Trong nhà thờ hơi tối. Ánh sáng dường như chủ yếu có mục đích làm nền
cho hàng cửa sổ kính màu ở trên cao, còn bên dưới, những khuôn mặt làm
người chìm vào bóng tối và sự chờn vờn của những ánh nến thắp dọc hành
lang. Đột nhiên, Paris bên ngoài không còn tồn tại. Xung quanh, những
người khách du lịch đi lại rón rén; một số khác gục xuống những hàng ghế
cầu nguyện; tiếng thì thầm của khách và những tiếng cầu nguyện cùng với
tiếng bước chân ầm ầm dưới những mái vòm cao khiến cả nhà thờ có không
khí của một nhà nguyện Trung cổ. Tôi ngồi xuống một hàng ghế gần một
cậy cao. Càng ngồi, tôi càng chìm dần vào một cảm giác quen thuộc như
thể tôi không phải khách du lịch ở đây; tôi là một người quen ghé lại căn
nhà cũ, nơi người chú mà tôi từng thân thiết đã chuyển đi từ lâu nhưng cũng
có thể bất thình lình ghé lại ngồi xuống cạnh tôi: “Xin chào, đã lâu quá rồi
phải không?”
Sáng nay, khi đi ngang cây cầu phía trước Hôtel de Ville và nhìn sông
Seine lần đầu dưới ánh sáng ban ngày, tôi cũng có cảm giác đúng như thế.
Rằng bất thần, khi tôi đứng nhìn Paris trong thời tiết xe lạnh và hơi xám,
với những ngôi nhà trầm mặc đứng dọc hai bên bờ sông và những hàng liễu
rủ dưới kè sông, có thể nhà cách mạng già trong Chín mươi ba, hay một