đồ của anh bị cấm, không được phép nhận và không đưa cho anh nữa).
Người nào nhận được đồ tiếp tế cũng phải biếu xén từ trên xuống dưới, bắt
đầu từ bọn giám thị. Sau khi lục soát kĩ gói đồ, nào chúng có đưa cái thùng
gỗ cho ta đâu, mà ta phải chất các thức vào trong bao, hay đựng bằng vạt áo
khoác bông rồi phắn ngay để người tiếp theo còn vào nhận. Lắm lúc vì họ
giục ghê quá có người còn bỏ sót thứ gì đó trên quầy, lúc ấy
thì đừng có mất công trở lại mà tìm. Làm gì còn ở đấy nữa.
Hồi còn ở Ust - Izima, Sukhov có nhận được đồ tiếp tế đôi ba lần. Sau
anh phải biên thư nói vợ đừng
gửi nữa, vì đến được tay anh còn lại cũng chẳng là bao, thà để ở nhà
cho con nó ăn còn hơn. Mặc dù hồi còn ở nhà anh nuôi cả gia đình dễ hơn
là bây giờ ở đây anh tự nuôi thân một mình, song anh cũng hiểu là những
gói đồ đó đáng giá như thế nào, không thể suốt mười năm ăn bớt phần của
vợ con như thế. Thà anh chịu nhịn còn hơn.
Nghĩ là thế, nhưng cứ mỗi lần trong đội hay trong trại giam của anh có
ai nhận được đồ tiếp tế - mà hầu như ngày nào cũng có - anh vẫn cảm thấy
tủi tủi vì người ấy không phải là anh. Mặc dù nghiêm cấm vợ gửi đồ cho
mình, thậm chí cả vào dịp lễ Giáng sinh, và không bao giờ bén mảng tới
cây cột có treo cái bảng danh sách đó, trừ phi đi xem hộ cho những phạm
khá giả hơn, - không hiểu sao anh vẫn cứ ngóng chờ ai đó chạy tới bảo anh:
- Sukhov! Sao không đi nhận? Anh có một gói đồ đấy! Song chẳng có
ai chạy tìm anh cả...
Chính vì thế anh càng ít lí do hơn mà nghĩ về cái làng Temgenyvo và
cái nhà gỗ của mình. Sống trong trại đầu tắt mặt tối suốt từ lúc kẻng báo
thức cho tới lúc tắt đèn đi ngủ, anh làm gì còn thời gian, sức lực để mà nhớ
tới những kỉ niệm ngọt ngào. Lúc này anh đang đứng giữa những người
đang trấn an cái bụng của mình bằng niềm hi vọng họ sắp được ngoạm
những miếng mỡ lợn muối, phết bơ lên những lát bánh mì hay uống cốc trà
tướng pha đường. Còn Sukhov thì chỉ có một mong muốn duy nhất: kịp về