cái cười làm khuôn mặt cau có ủ dột mấy ngày qua tươi mới lại. Và anh
nhìn thày lang bất đắc dĩ gật gầt đầu với ánh mắt kiêng nể:
- Chịu cậu rồi!
Nhị Nguyễn tỉnh dạy lúc gần trưa. Máp máy đôi môi bạc phếch nứt nẻ, ông
muốn nói mà không thành tiếng, muốn cười mà không nhếch được mép.
Đang có sự nhẹ nhõm trong lục phủ ngũ tạng mình đây các cậu ơi! Lèng
Cảnh liền nấu ống nước thuốc, cho uống tiếp ở trên rừng. Thêm một ngày
đêm nữa ông Nhị Nguyễn đã gượng dạy được tỉnh táo hơn hẳn trước. Phải
mau chóng xuống núi. Hai người thay nhau cõng. Bình nhanh dò dẫm từng
bước. Mất một ngày cật mới đến được bản với gần chục nóc nhà sàn nằm
rải rắc bên bìa rừng. Đó là một bản của người Lào Thững. May nữa là trong
bản có một ông lang già. Xem lại các loại lá lâu, vỏ, thân cây mà lang trẻ
thu hái, ông này nhận mặt được ngay trong đó có một vị thuốc thuộc loại
đầu bảng ông vẫn dừng để chữa trị bệnh sốt rét cho bà con tên Lào là khua
cao ho. À cái cây khua cao ho này, Lèng nhớ lại, vỏ xù xì, lá to như lá trầu
không, thân chỉ nhỏ bằng ngón tay là loài dây leo bám, lúc đó anh cố dứt
được một đoạn khá dài khi đã có cả mớ lá, vỏ đắng. Khua cao ho không
đắng bằng các loại kia, chỉ nhằng nhặng đắng thôi. Ai ngờ nó lại là đầu vị,
nó lại là cứu tinh! Vậy thì điều may mắn đến với Nhị Nguyễn từ sự dứt cố
đoạn dây leo ấy, một tình huống ngẫu nhiên có lẽ là độc nhất vô nhị trên thế
gian này nếu không ông đã vùi xác ở rừng già Tây Trường Sơn rồi. Ông
lang “thật”, biết chuyện có lời khen lang “giả” mát tay. Ông còn chỉ cho
anh biết thêm các loại cây thuốc khác phối hợp với khua cao ho trị sốt rét
hay hơn (Và biết đâu trong số lá lâu, vỏ đáng mà Lèng đã cho tuốt vào ống
nứa ngộ trên rừng, cũng đã có vị thuốc phối hợp được với khua cao ho mà
chính lang “thật” không biết?). Nửa tháng chữa trị ngoài thuốc Bình có
thuốc bổ nâng đỡ tì vị khí huyêt, bà con trong bản còn ủng hộ thịt rau quả
bồi dưỡng. Nhị Nguyễn dần hồi phục chống gậy đi lại được. Ngày lên
đường ông đeo thử coi ba lô vàng bỗng thấy đầu gối bản rủn cả người như