râu ria lởm chởm, đang mời anh bước lên máy bay; máy bay đã sẵn sàng,
có thể bay liền. Mêrétxép bước tới máy bay, nhưng đất như lửa bốc cháy
dưới hai chân anh, giống như anh đang đi trên tấm tôn nóng bỏng. Anh
xông lên, nhảy chồm qua khoảng lửa cháy đỏ, vượt tới chỗ cánh phi cơ,
nhưng anh đụng phải thân máy bay mát lạnh, và, - kinh ngạc chưa - thân
máy bay không trơn nhẵn phẳng phiu nữa mà xù xì như vỏ cây thông... Có
máy bay gì đâu! Anh đang đứng trên đường và tay anh đang sờ soạng thân
cây. Anh tự hỏi:
- Mê chăng? Máy bay rơi đã làm mình điên rồi sao? Đi trên đường không
chịu được, hay ta trở lại trong rừng? Nhưng trở về thì thật là đi chậm ghê
chậm gớm...”
Anh ngồi xuống tuyết, mạnh dạn và lanh lẹ như hồi nãy, anh lại giật đôi
ủng ra. Anh dùng răng; dùng móng tay xé băng ở cổ chân ra để đôi chân đã
hỏng của anh được tự do cử động. Anh rút khăn Ănggora
quấn ở cổ và xé
theo chiều dọc, dùng nó để cột hai bàn chân. Như thế anh đi dễ hơn. Nhưng
thực ra gọi là đi thì không đúng lắm. Anh chuyển dịch thận trọng bằng gót,
chân giơ cao như người bước trong bùn. Mỗi lần đi được vài bước, đầu anh
lại choáng váng vì đau và ráng quá sức. Anh phải ngừng bước, mắt nhắm
lại, lưng tựa vô thân cây hay ngồi xuống đất bằng để nghỉ. Mạch máu toàn
thân anh đập dồn dập.
Anh đi như thế đã mấy tiếng đồng hồ. Nhưng khi anh nhìn qua kẽ những
thân cây, anh vẫn còn thấy chỗ đường quẹo, nơi mà xác của người chiến sĩ
Udơbếch nổi rõ bóng đen trên nền trời sáng.
Mêrétxép bực mình, bực mình chứ không sợ hãi.
Mục đích duy nhất của anh là đi thật nhanh. Anh đứng dậy, nghiến chặt
răng và tiến bước. Anh đặt mục tiêu từng mức từ cây thông này đến cây
thông kia, từ gốc cây này đến góc cây khác, từ đống tuyết này đến đống
tuyết nọ. Trên tuyết trắng chưa ai đặt chân tới, bao phủ con đường rừng,
anh để lại những vết chân khập khiễng và không đều, như vết chân thú bị
thương.