“Anh đã ghi công anh ấy hạ mấy phi cơ hôm nay?” “Hai”. “Vậy thì anh có
thể ghi thêm cho anh ta một máy bay nữa. Anh ấy đã rút ra được một chiếc
Phốc Vun nó bám lấy đuôi tôi. Chính mắt tôi thấy chiếc phi cơ này rơi
xuống đất”. Đó, không biết nói năng gì khác nữa à?
Đại tá vừa nói, vừa nhìn Alếchxây, làm ra vé cáu kỉnh, trông không biết
đại tá đùa hay giận thật.
- Sao? Chuyện như thế đấy à? Anh ra mà giải thích lấy với bên láng
giềng. A lô. Anh nghe không? Tôi để cho anh nói chuyện với trung úy
Mêrétxép.
Alếchxây nghe thấy một giọng nói trầm trầm và lớn tiếng, mà anh không
quen:
- Này, trung úy, cám ơn đấy. Thật là một cú tuyệt diệu; anh đã cứu sống
tôi. Tôi đã bay theo nó xuống tận đất để coi nó tan tành... Anh có uống một
hơi rượu vốtca không? Sang chơi bên cơ quan chỉ huy của tôi đi. Tôi nợ
anh một lít... Cám ơn lần nữa nghe! Siết chặt cái cẳng anh và trông anh đấy.
Mêrétxép mắc lại ống nghe. Anh đã hết sức mệt mỏi vì những sự việc
dồn dập trong ngày. Anh không đứng nổi nữa. Anh chỉ có một ý nghĩ là về
gấp nơi ổ chuột, để cởi cặp chân giả ra và nằm dài nghỉ ngơi. Anh loạng
choạng một lát bên điện thoại, rồi từ từ bước ra phía cửa.
- Anh đi đâu đấy?
Đại tá chặn cửa anh. Đại tá nắm tay Mêrétxép và siết chặt tay anh trong
bàn tay nhỏ bé và khô cằn của đại tá, chặt đến nỗi làm cho tay anh đau
nhói.
- Anh muốn tôi nói gì với anh được? Hoan hô! Tôi rất hãnh diện được
chỉ huy những chú như anh. Cám ơn. Và cả cái cậu bạn nhỏ Pêtơrốp của
anh nữa! Thật là một thanh niên rất hay! Và tất cả những anh khác nữa...
Với một dân tộc như vậy, không thể thua trận được.
Đại tá lại siết chặt tay Mêrétxép, siết muốn gẫy tay anh.
Trời tối đêm rồi lúc Mêrétxép về nơi trú ẩn. Anh trằn trọc hoài không
ngủ được. Anh xoay đi xoay lại gối đủ chiều, đếm từ một đến một ngàn và
từ một ngàn tới một, kêu tên những bạn bắt đầu bằng chữ A rồi sang đến