ngay rằng tôi sắp được nghe một câu chuyện kỳ lạ, đến cái mức là chưa ai
từng được dịp nghe. Tôi bèn vớ lấy một cuốn vở học trò để trên bàn, có ghi
tựa: “Nhật ký công tác của phi đội ba”, và tôi bắt đầu ghi chép câu chuyện
anh kể.
Đêm tối dần dần tràn vào khu rừng. Ngọn đèn nhỏ chong ban đêm đặt
trên bàn và nổ tí tách lên khói; không bao lâu, những con bướm đêm liều
lĩnh đến thiêu cặp cánh của chúng trên ngọn lửa và rơi lả tả quanh đèn. Đầu
hôm, gió nhẹ lùa vào mang theo tiếng ắccoócđêông ề à; nhưng rồi tiếng
ắccoócđêông bặt đi, và giọng nói đều đều của anh, hơi ồ ồ, chỉ còn đi theo
cùng tiếng rừng đêm, tiếng vạc kêu inh ỏi, tiếng cú mèo than xa xôi, tiếng
ễnh ương dưới đầm, gần đó, cùng tiếng dế nỉ non.
Câu chuyện kỳ lạ của người này đã làm tôi say mê sâu sắc đến nỗi tôi đã
cố gắng ghi thật đầy đủ chi tiết. Tôi chép đầy cả một cuốn tập. Tôi lại lấy
một cuốn khác trên kệ và cũng chép đầy kín ngay, và tôi không ngờ trời đã
bắt đầu chiếu ánh sáng trắng vào con đường hầm đưa tới nhà trú ẩn, khi
Alếchxây nói đến đoạn sau khi đã hạ ba phi cơ Đức của sư đoàn
Ríchhôphen, anh cảm thấy anh đã trở lại thành một người, một phi công
như mọi người.
Anh ngắt ngang câu chuyện giữa một câu đang nói dở:
- Thôi! Chúng ta đã nói chuyện ba hoa nhiều rồi, và ngày mai thì sáng
tinh sương tôi còn phải xuất trận. Tôi không làm anh bực mình quá chớ?
Bây giờ chúng ta phải đi ngủ thôi.
Tôi hỏi anh:
- Thế còn Onga, sau này cô ra sao? Cô đã trả lời anh ra sao? Tôi nói
thêm ngay: Xin lỗi anh, nếu câu hỏi của tôi khiến anh không thích; không
tiện trả lời, thì xin anh đừng trả lời.
Anh cười nói:
- Nhưng không, có sao đâu? Cô ấy và tôi, chúng tôi là hai đứa hết sức kỳ
cục. Anh biết không? Đếchcharencô đã viết thư ngay cho cô kể hết chuyện:
đầu tiên, là tôi gặp nạn, rồi hai chân tôi bị cưa. Còn cô, thì cô thấy tôi giấu,
nên cô nghĩ rằng tôi đau khổ lắm khi nói sự thực, nên cô làm như không