Anh đứng lại tê bại cả người, anh lảo đảo. Song anh cắn chặt môi, cố bước
thêm mấy bước nữa trên đường tuyết.
Chân anh đã lún sâu xuống.
Sau cùng, anh tự thấy không còn sức để đi nữa; không một sức mạnh nào
trên đời làm anh rời được chỗ anh đứng, và nếu ngồi xuống thì không đứng
dậy được nữa. Anh nhìn quanh nhớn nhác. Gần đường có cây thông nhỏ
cành lá xum xuê. Anh ráng sức bước lại cây và ngã thụp xuống. Một ngáng
cây trúng dưới cằm anh, đỡ người anh, anh thấy khỏe được một chút. Nhờ
cành cây ấy, anh co từng chân lên cho đỡ mỏi, đỡ đau, rút được chân ra
khỏi tuyết. Nhờ làm như vậy anh nảy ra một sáng kiến, ừ phải. Chứ sao,
hay nhất là chặt cây thông nhỏ này ra, vót thành một cây gậy, có chãng ba ở
đầu. Anh đưa cái gậy ra xa, kê cằm vô chỗ chãng ba, rồi ấn tất cả sức nặng
của mình lên, như anh vừa làm, kéo đôi cẳng tiến lên phía trước. Như thế
lâu lắm, lâu nhưng không phải chờ cho tuyết đóng cứng thành băng. Anh
ngồi ngã quỳ xuống, lấy dao chặt cành thông, tỉa cành lá, lấy khăn tay băng
cột chãng ba cho êm rồi thử lại lên đường. Anh đưa gậy lên trước, tì cằm
lên chãng ba, tiến lên một bước, rồi một bước nữa, lại đưa gậy lên trước, tì
vào, lại tiến lên một bước, rồi một bước nữa. Anh đi như vậy, đếm từng
bước đi và đặt những mục tiêu mới cho bước tiến của mình. Thật là một
cảnh tượng kỳ quặc nếu ai thấy được cái con người nọ tiến lên giữa rừng
thẳm bằng một cách không thể tưởng tượng được như vậy. Anh tiến giữa
tuyết chất thành từng đống với tốc độ một con sâu, đi từ sáng tinh sương
đến tối mịt để di chuyển được có năm cây số. Nhưng rừng vắng vẻ chỉ có
mấy chú ác là là thấy cảnh đó. Và, suốt mấy ngày đó, chim càng thấy rõ
con vật kỳ lạ có ba chân ấy thật vụng về và vô hại. Anh đến gần, chúng chỉ
nhảy tránh một bên, mà còn như tiếc công, rồi ngoái đầu lại phía anh, nó
quan sát anh với những cặp mắt nhỏ, đen và tò mò.