hay, và chạy cố xác. Nó chạy thẳng vào làng, ngừng lại, đứng dựng lên như
một cái bia, giơ hai chân về phía trước, vểnh tai, lặng yên một lát, rồi nhận
thấy con vật kỳ lạ đang bò theo nó, nó nhảy mất, chạy theo lớp rào cháy
đen và vắng ngắt.
Như cái máy, Alếchxây tiến tới nữa. Những giọt lệ lớn chảy trên đôi má
râu ria rồi lăn xuống tuyết. Anh cũng ngừng lại gần chỗ cửa làng nơi con
thỏ vừa ngừng lại lúc trước. Một miếng bảng hãy còn hàng chữ: “...Trẻ!”.
Có thể nhận ra liền, là ngay sau hàng rào xanh, trước đây là một gian nhà
xinh đẹp chắc dùng làm vườn trẻ. Còn lại đó những cái ghế dài tí hon bào
láng bóng do bác thợ mộc trong làng đóng cho các em. Anh đẩy cửa và đến
gần một cái ghế, định ngồi. Nhưng vì lưng anh quen bò rồi, nên khi ngồi
thẳng anh thấy xương sống đau nhừ. Muốn nghỉ, anh nằm trên tuyết, mình
lăn tròn như một con thú kiệt sức.
Tuyệt vọng tràn tới.
Cạnh ghế, tuyết đã tan. Mắt nhìn rõ được hơi nóng mờ mờ bay lên khỏi
chỗ đất trở nên đen. Anh cầm một nắm đất nóng ấm và dinh dính; đất rã ra
trong tay anh và một mùi phân ẩm ướt xông lên: mùi chuồng, mùi đời
sống!
Mặt trời lặn xuống hàng răng cưa lởm chởm của rừng cây. Alếchxây lại
bò qua cái trước kia là đường làng mà nay không còn gì cả. Một mùi thối
của xác chết xông lên từ những ngôi nhà bị cháy.
Làng này còn hiu quạnh hơn cả khu rừng hiu quạnh nhất. Bỗng nhiên
một tiếng động làm anh giật mình. Ở trong đống gạch ngói của gian nhà
cuối, anh thấy một con chó. Một con chó rất thường, to, hay nuôi ở sân,
lông dài, tai rủ lòng thòng. Một con chó kiểu chó Bôbích hay Giúcca rất
thông thường. Nó gầm gừ gặm một miếng thịt nhời nhợi, hai chân trước ôm
lấy miếng thịt. Vừa thấy anh, con chó mà trước kia có lẽ rất ngoan, thường
bị bà chủ nhà cầm chổi dọa hay được con nít vuốt vuốt ve ve, hiện nay, đổi
khác hẳn, nó giơ nanh và sủa. Mắt nó hung dữ khác thường làm cho anh
rởn tóc. Anh rút miếng vỏ độn tay để rút sẵn súng. Trong chốc lát, người và
con chó đã trở thành thú dữ nhìn nhau chòng chọc, như thách thí nhau.