Đêm đến, anh định ngủ ở một hố bom mà sức nổ đã làm cho đất cát dựng
lên một ổ súng. Trong hố, không khí im lặng hơn. Gió không thổi thốc vô
và chỉ nghe tiếng cát tuột từ trên miệng xuống. Từ dưới hố bom anh thấy
sao trên trời thật sáng và tựa như treo kề trên đầu. Cành thông xum xuê, lá
rung rinh dưới sao thật chẳng khác một bàn tay phủi mãi bụi và mài giũa
cho những ngọn lửa lập lòe đó.
Sáng, trời lạnh hơn nhiều. Mù sương giá lạnh bao trùm khu rừng. Gió
xoay chiều thổi từ phương Bắc lại.
Sau đêm đó, anh thấy yếu hơn bao giờ hết. Anh không buồn nhai vỏ cây
thông mà anh còn để dành trong túi. Anh uể oải bò dậy không nổi, tưởng
người anh như gắn xuống dưới đất trong ban đêm. Không buồn phủi tuyết
đọng trên tóc, râu, anh bò lên khỏi hố bom. Nhưng tay anh yếu ớt tuột trên
sườn hố đầy băng trong đêm. Anh cố đu mình nhưng không lên nổi. Anh
lại ngã xuống đáy phễu. Và mỗi lần như thế, anh thấy sức đuối thêm. Cuối
cùng anh kinh hoàng nhận ra rằng nếu không có người giúp sức, chắc anh
không lên thoát khỏi hố. Ý nghĩ ấy đẩy anh phải cố, phải tự lực. Anh cử
động thêm ít nữa nhưng lại bị tuột xuống, kiệt sức và bất lực.
- Thôi kệ, thế là xong.
Anh co mình nằm dưới hố. Anh rút thư trong túi, những bức thư nhàu
nát, nhưng anh không còn đủ sức đọc nổi nữa. Anh cầm cái hình bọc trong
giấy kính, rút hình ra, hình cô thiếu nữ trẻ, mặc áo xiêm sặc sỡ ngồi giữa
đồng cỏ nở hoa. Anh mỉm cười cùng cô một cách nghiêm trang buồn bã, và
hỏi cô:
- Phải chăng là vĩnh biệt? - Bỗng nhiên anh rùng mình; hình còn trong
tay anh lặng yên. Trên kia, cao hơn rừng cây, trời lạnh ngắt, hình như có
tiếng động quen tai.
Mệt mỏi, buồn ngủ hình như tan mất. Thực ra tiếng động không có gì lạ
đâu. Tiếng động ấy lại nhỏ lắm, có lẽ một con thú lắng rình cũng không
nghe rõ giữa tiếng thì thầm đều đều của cây cao, nhưng anh thì anh nghe
thấy rất rõ vì có nhiều tiếng rít riêng. Anh đoán chắc không thể lầm: đó là
tiếng máy bay săn giặc - giống những kiểu máy bay anh vẫn cầm lái.