Chiếc xe chở Tống Diệm mau chóng biến mất nơi góc đường, đèn
phía sau xe đỏ chói như lửa thiêu đốt mắt Hứa Thấm. Cô đứng ngây ra đó
trong giây lát rồi nhẹ nhàng lau đi dòng lệ rưng rưng nơi khóe mắt, lập tức
tiến về phía trung tâm.
Đêm khuya, trấn nhỏ tiêu điều hoang vu, cô bước đi trên con phố đổ
nát loang lổ vết máu, như thể đi trên cánh đồng hoang lạnh giá. Ngọn gió
bấc vẫn thổi rét thấu xương.
Lạnh quá, thân thể cô cũng như bị đóng băng, ngoại trừ run rẩy ra thì
không có lấy bất cứ phản ứng nào khác. Đáy lòng ngoại trừ buốt giá ra thì
không có bất cứ tri giác nào khác.
Không bi thương, không đau khổ. Tại trấn nhỏ bị bao phủ trong buồn
thương này, mỗi ngày đều có người mất đi người họ yêu nhất, mỗi ngày
đều có người tận mắt nhìn thấy người thân và ngôi nhà họ từng bảo vệ bị
phá hủy tan nát. Bàn tay vận mệnh to lớn đến mức khiến tất cả những gì
người ta có được đều nhỏ bé và không đáng kể. Buồn đau và nước mắt đều
không đáng nhắc đến.
Hứa Thấm không chảy thêm một giọt nước mắt nào nữa, không có gì
đáng để khóc cả. Vô ích thôi!
Nhưng khi cô đi qua một con phố vắng lặng, nghe thấy gió rét rít gào
xuyên qua nhũng khe hở của đống phế tích, phát ra từng tiếng rên rỉ khóc
than, như thể trời cao đang đau buồn và thương xót thay cô, cô lại bất thình
lình gập người xuống, gào khóc thảm thiết.
Không phải che giấu, không phải đè nén nữa, cô thật sự đã sợ hãi
muốn chết rồi, hoảng loạn muốn chết rồi. Cô không phải trốn tránh gì nữa,
không ai biết cô đang ở đây, cũng không ai nghe được tiếng khóc tan nát
cõi lòng của cô.
Chỉ có gió bấc lượn vòng trong khu phế tích cùng than khóc mà thôi.