“Dĩ nhiên là có. Em không thấy hàng đống pháo khi chúng ta đi ngang
sao? Thật kỳ diệu khi thấy những cây pháo thăng thiên hoàn thành những
quỹ đạo của chúng rồi rơi xuống chân người ta.” Nàng không nói gì và anh
ta đặt mái chèo vào cọc chèo: “Nếu chúng ta ở lại, chúng ta nên kiếm cái gì
đó để ăn.”
“Nhưng sau đó làm sao chúng ta trở lại?” - nàng đánh bạo bày tỏ ý kiến
của mình, và cảm thấy tiếc vỡ tim nếu bỏ lỡ nó.
Anh ta tham khảo thời khóa biểu và cam đoan với nàng là có chuyến xe
lửa 10 giờ. “Mặt trăng lên rất muộn, vào khoảng 8 giờ trời sẽ tối đen, và
chúng ta còn hơn một tiếng đồng hồ nữa.”
Chạng vạng xuống, những ánh đèn bắt đầu sáng dọc theo bờ hồ. Những
chiếc xe điện rời Nettleton gầm rú, tỏa sáng cuộn mình giống như những
chú rắn đến và đi giữa những hàng cây. Những quán ăn bằng gỗ ở cạnh hồ
mờ ảo với những chiếc đèn lồng. Trong tranh tối tranh sáng vọng lại những
tiếng cười, la ó và những tiếng khuấy nước của những mái chèo vụng về.
Harney và Charity tìm được một cái bàn trong góc một hành lang xây
trên hồ, và kiên nhẫn chờ món sô đơ. Phía dưới họ, nước vỗ bập bềnh có
ngọn khi bị khuấy động bởi một chiếc tàu nhỏ màu trắng chạy bằng hơi
nước có những chiếc đèn hình cầu đủ màu đưa hành khách lên và xuống
lòng hồ. Trời đã tối hẳn.
Thình lình Charity nghe một giọng cười đàn bà phía sau nàng. Giọng rất
quen thuộc và nàng quay lại để nhìn. Một nhóm con gái chưng diện sặc sỡ
và những chàng trai trẻ ăn mặc bảnh bao mang huy hiệu đoàn thể của xã
hội. Họ đội những chiếc nón rơm lật ra phía sau để lộ mái tóc cắt ca rê, họ
đã chiếm hành lang và í ới gọi bàn. Người con gái dẫn đầu là người cười
lúc nãy. A đội một cái nón rộng vành với một cọng lông chim màu trắng,