chất hàng và đám đông xung quanh sân ga quá đông đến nỗi dường như
không mong gì tìm được một chỗ ngồi.
“Chuyến cuối lên hồ.” - loa phóng thanh rống lên từ phía cầu tàu, và
những ngọn đèn của chiếc tàu nhỏ chạy bằng hơi nước nhảy múa tung tăng
trong bóng đêm.
“Chờ ở đây không ích lợi gì, chúng ta sẽ chạy lên Hồ nhé!” - Harney đề
nghị.
Họ chạy ngược về phía mép nước khi tấm ván vừa hạ xuống từ bên sườn
màu trắng của con tàu. Ánh đèn điện ở cuối cầu tàu soi rõ trên những hành
khách xuống tàu, và giữa đám đông Charity nhìn thấy Julia Hawes, chiếc
mũ lông trắng đội lệch, và gương mặt đỏ lên với giọng cười khả ố. Khi ả
bước lên từ tấm ván, ả liền dừng lại, đôi mắt đen tròn xoe phóng một cái
nhìn đầy ác ý.
“Chào Charity Royall!” - ả gọi lớn, và rồi nhìn ngoái lại phía sau: “Bộ
tao không nói với mi đó là buổi tiệc gia đình hay sao? Đây là con gái nhỏ
của ông nội đến để mang ông về nhà!”
Một cái cười khẩy lan nhanh trong nhóm và rồi nổ tung quanh chúng nó.
Tự trấn tĩnh mình một cách tuyệt vọng, ông Royall vịn lan can, cố gắng để
đứng vững, rồi sau đó bước đi một cách vững chắc vào bờ. Giống như
những chàng trai trẻ ở buổi tiệc, ông Royall mặc áo có gắn huy hiệu trong
khuy áo choàng. Ông đội một chiếc mũ Panama mới, và cái cà vạt bản nhỏ
tháo ra một nửa lòng thòng, lắc lư phía trước chiếc áo sơ mi nhàu nát.
Gương mặt ông thâm tái, với những đường gân đỏ nổi lên vì giận và đôi
môi móm sâu vào như môi của một ông già, đó là sự hủy hoại đáng thương.
Ông ta ở ngay sau Julia Hawes, và để một bàn tay trên cánh tay ả, nhưng
khi ông rời tấm ván, ông tự đi và tránh ra một hai bước khỏi đám người đi