Một ngày như bao ngày khác, nàng ngồi một mình trong thư viện suy
nghĩ về những điều này giữa bốn bức tường, các quyển sách xung quanh,
và cái bàn gỗ hồng đào đặt trên tảng đá dưới khuỷu tay mình. Nàng cảm
thấy choáng váng và nôn mửa giống như ngày lễ hội ở Town Hall. Nhưng
Town Hall thì đông đúc và ngột ngạt còn thư viện thì trống trải và rất lạnh
đến nỗi nàng phải mặc áo khoác. Năm phút trước nàng còn cảm thấy hoàn
toàn khỏe, vậy mà bây giờ dường như nàng sắp chết tới nơi. Mảnh ren nàng
móc một cách uể oải tuột khỏi các ngón tay và cây móc bằng thép rơi
xoảng xuống sàn nhà. Nàng ấn hai bên thái dương thật mạnh bằng hai bàn
tay ướt đẫm, rồi tựa chắc vào bàn trong khi đợt sóng buồn nôn quét qua
nàng. Dần dần nó giảm đi, sau ít phút nàng đứng lên, run rẩy và khiếp sợ.
Nàng cúi xuống lấy mũ và loạng choạng bước ra ngoài không khí. Nhưng
tất cả ánh nắng mùa thu như quay cuồng và tiếng gió không ngừng gào rú
xung quanh khi nàng lê bước trở về nhà trên con đường dài vô tận.
Nàng về đến ngôi nhà đỏ, nàng giật thót tim khi thấy một chiếc xe độc
mã dừng trước cửa. Nhưng ông Royall là người duy nhất bước ra, ông cầm
túi du lịch trong tay. Thấy nàng đang đi đến, nên ông chờ ở cổng. Nàng
bình tĩnh khi ông nhìn nàng một cách chú ý, như thể có điều gì đó là lạ
trong dáng vẻ của nàng, còn nàng thì hất đầu ra sau với sự cố gắng làm ra
vẻ dễ chịu. Đôi mắt họ gặp nhau và nàng nói: “Ông đã về!” như thể không
có gì xảy ra. Và ông trả lời: “Ừ, tôi đã về.” rồi ông đi trước, đẩy cửa vào
văn phòng mình. Còn nàng thì leo lên phòng. Mỗi bậc thang như giữ chân
nàng lại, nàng không thể bước nhanh vì cảm thấy có keo dính ở hai bàn
chân.
Hai ngày sau, nàng đáp xe lửa xuống Nettleton. Nàng ra khỏi nhà ga và
đi vào quảng trường bụi bặm. Thời gian lạnh ngắn ngủi đã qua, ban ngày
thì ôn hòa nhưng gần như nóng giống như khi nàng và Harney ở đây vào
ngày Quốc khánh 4 tháng 7. Trong quảng trường vẫn những người làm thuê
chán nản, những người khuân vác ủ rũ và những con ngựa gầy gò với cái
lưới ruồi trên vai, đầu rũ rượi lắc tới lắc lui.