đụng vào làm cho méo mó. Những chiếc áo đầm dài trong các cửa tiệm thật
ấn tượng đến nỗi nàng không dám nhìn hình ảnh của mình phản chiếu trong
gương, nhưng khi nàng nhìn vào thì thấy gương mặt mình bừng sáng dưới
chiếc mũ màu sơri, và đôi bờ vai cong, trẻ trung lồ lộ qua làn vải mút sơ lin
nên nàng đã lấy lại sự tự tin của mình. Nàng lấy ra cái kim cài áo màu xanh
từ trong chiếc hộp nhỏ cài lên ngực áo, nàng bước thẳng vào nhà hàng, đầu
ngẩng cao như thể nàng luôn luôn đi thong dong trên những sảnh lót đá hoa
bên cạnh những người đàn ông trong bộ đồ bằng vải flanen.
Trong chốc lát, tâm trí nàng chìm vào cảnh tượng những cô hầu bàn mặc
bộ đồ đen với cái eo thon nhỏ, chiếc mũ trùm đầu đẹp mê hồn trên những
cái đầu cao ngạo di chuyển từ bàn này sang bàn khác một cách khinh
khỉnh. Không lâu sau, một trong số họ dừng lại nơi Harney ở lối đi, và anh
ta đứng nhìn một cách nghi ngại xung quanh mình.
“Ôi, chúng ta không thể ở nơi ngột ngạt này.” - anh ta quyết định với một
ý tưởng sẽ làm cho Charity khuây khỏa vì đã theo mình đến cái cảnh nguy
nga thiếu thiện cảm này - “Chúng ta thử tìm một nơi khác”.
Sau những bước đi nặng nề trong cái nóng oi bức, họ đã tìm được một
“nơi nào khác” đó, thoáng khí phía sau con đường được gọi là nhà hàng
Pháp gồm vài ba chiếc bàn ọp ẹp đặt trên một tấm thảm màu đỏ sậm, giữa
một miếng đất nhỏ có những cây hoa cúc Zinnias và những cây dã yên thảo
màu tím cùng một cây đu to nghiêng mình từ sân kế bên. Ở đây người ta
phục vụ bữa trưa với những món có hương vị rất kỳ cục, trong khi Harney
tựa mình vào cái ghế đá khập khễnh, hút xì gà giữa những món ăn và rót
rượu vang màu vàng nhạt vào cốc của Charity mà anh ta nói đó là cách
người ta uống trong các nơi vui chơi như vậy ở Pháp.
Charity nghĩ rượu vang không ngon hơn rượu bổ thổ phục linh, nhưng
nàng cũng hớp một ngụm đầy vì vui được làm theo những gì anh ta làm.
Nàng rất hạnh phúc vì được ở một mình cùng anh ta nơi miền xa lạ. Cái