Chồng câm và khờ khạo nhưng ba mạ chồng lại không. Họ sinh nghi khi
biết thằng con mình chưa kịp làm ăn gì mà đứa con dâu đã sình bụng. Thế
nên mạ chồng tìm cách đày đọa cho bõ tức. Con tao khờ nhưng có cái giá
của khờ chớ, tự dưng đi đổ vỏ. Nói ra người ta kêu ác, chứ chỉ từ ngày ông
bà lần lượt về trời chị mới trở lại cuộc sống bình thường cho ra một con
người. Con Trà cũng cười hể hả, bảo mạ từ nay thoát khỏi kiếp trâu ngựa.
Dù là đứa gan lì đến mấy, nó cũng đâu chịu nổi cảnh bà nội mà chẳng phải
bà nội, suốt ngày bắt đổ bô, dù còn sức để lấy chổi mà quất vào mặt mạ của
nó.
Điều an ủi lớn nhất là bà vẫn cho chị đi bán lộc hàng năm. Kiếm được
bội tiền nên dại gì. Dịp ấy, chị mới ra khỏi nhà lâu đến vậy. Lại còn được
ngẩng mặt lên nhìn người. Rồi tìm trong mênh mang biển người ấy, một
gương mặt và giọng nói giờ chẳng còn đọng lại chút gợi nhớ nào. Chị sống
cả năm chỉ để chờ một phiên chợ. Cứ dật dờ, giả mù giả điếc đác, bỏ ngoài
tai mọi tức giận chì chiết của mạ chồng, ngơ ngáo của chồng chỉ để mắt
sáng trưng tai thật thính trong phiên chợ khuya. Ba trăm sáu mươi tư ngày
còn lại sẽ dật dờ trông đợi. Nhưng niềm trông đợi cũng hay, nhiều khi ngỡ
đã tắt lụi đi như đám lửa chỉ còn trơ vài ba hạt bụi, thế mà cứ âm ỉ hơi nóng
rồi bùng lửa cho đến năm sau.
Chị chưa bao giờ đi ra khỏi bán kính hai mươi cây số. Ba mẹ chồng luôn
bắt ở nhà, đi đâu quá lâu lại rề rà chửi rủa. Chồng thì khỏe re, cứ cho ăn
ngày ba bữa đủ no, chiều chiều bưng dĩa mồi chai rượu ngồi nhậu một
mình trong yên lặng. Thế là sung sướng. Lâu lâu say, lao vào cuộc làm
chồng rồi dáo dáo ngơ ngác đến tội, vì không quen. Chị thì dửng dưng bởi
thấy thiếu, thiếu nhiều nhiều so với lần đầu tiên sinh ra con Trà từ đọt chè
non nọ.
Trà lầm lì ít nói, nếu nó mở miệng thể nào cũng có người tức anh ách
hoặc phải sôi gan. Như bữa nó bảo bà nội cứ ác vậy, chẳng sống tới tuổi
bảy mươi đâu, rồi kêu vì bà ác nên con trai đâu có phước phận gì. Hay nó
bảo chị dở hơi, ngày đó không cắm cúi mà đi theo người nọ, có phải đỡ mất