cánh gà. Mọi thứ đều diềm vàng, lấp lánh. Ánh sáng mờ đi, rồi đến giây
phút đợi chờ im lặng, trước khi hai cánh rèm mở ra như có phép thần, thế là
vở diễn bắt đầu. Tôi thích ngắm diễn viên khi họ rời sân khấu, cách mà họ
biến đổi thành người thật ngoài đời, xa ánh đèn biểu diễn.
Xong rồi. Chúng tôi đứng dậy. Tiếng nhạc nhè nhẹ tỏa từ những cái loa,
tôi nghĩ là Fauré. Chúng tôi rời băng ghế, đi dọc lối trải thảm ra cửa. Kết
thúc rồi. Ông đi rồi.
Chiếc xe tang cũng đã đi mất. Tôi tự hỏi có phải nó đang trên đường tới
một đám tang khác hay không. Chữ Granddad đã được đặt lên ngăn đen
phía sau của một trong những chiếc xe. Bố không thích nó đâu. Hẳn ông cho
rằng nó loè loẹt.
Chúng tôi rẽ khỏi đường chính của Hampstead, chậm dần lại rồi ngừng
bên ngoài nhà thờ. Những cái cây treo cành trĩu lá phía trên một hàng rào sắt
màu đen, hắt ánh nắng lốm đốm lên những tấm lát sân bằng bê tông. Mãi
đến lúc rời hẳn xe tôi mới trông thấy anh Kal.
Bụng dạ tôi nôn nao, chân cẳng cuống cuồng. Anh đứng gần vòm lối vào
sân nhà thờ, nhìn tôi. Mắt sẫm. Miệng rộng. Tôi quay đi. Tôi nhìn lướt con
đường - một hàng cây dọc tim đường; một ngôi nhà bằng ván gỗ có cửa
vàng; một nghĩa trang sau hàng rào cao; một người đàn ông mặc áo khoác
cũ bằng vải wax, tay ông giơ lên như đang chào ai đó. Tôi nghe được nhịp
đập tim mình.
Chị Tilly đứng sát tôi. Tôi ngó chị trân trân.
“Chị đã cố tìm dịp báo trước với em, Alice à. Cậu ấy muốn biết tin. Chị
hiểu bố có... Nhưng hai người hoà thuận mà, phải không?”
Bố mà anh ta từng cùng uống whisky, bàn luận điểm số bóng chày và bài
đăng trên tờ BMJ, những tranh đấu chính trị trong ngành y.
“Chị không có quyền,” tôi rít lên.
Chị chạm vào tay tôi, tôi phải ép mình không xô chị ra. Tôi so vai, quay
lại đối mặt với thánh đường, với anh Kal.