Một thức nhận cơ bản của Phật giáo − được mô tả rất sinh động
trong câu chuyện bốn cuộc gặp của thái tử Tất Đạt Đa trong công viên
hoàng tộc − rằng, mọi vật đều thay đổi: mọi vật là vô thường. Vô
thường, đặc tính thứ nhất trong ba đặc tính cơ bản của hiện hữu, cho
ta thấy nhiều về bản tính của thế giới trong đó ta sinh sống, rằng mọi
vật trong trần gian đều thay đổi và chóng qua. Không có gì bền vững
hay tự trị. Mọi vật sinh ra đều hư hoại. Không vật thể, hiện sinh, ý
tưởng, kế hoạch, tâm thế nào có thể bền lâu tồn tại. Điều đó dẫn đến
một nỗi âu lo rất lớn cho con người, kẻ luôn đi tìm cái gì lâu dài, bền
vững, chắc chắn. Nhưng không có gì trường tồn hay thường tồn trong
trần gian.
Phật tử Theravada bình thường không nhìn nhận một Thượng đế tạo
thành, Đấng được gọi là Căn cơ của hiện hữu, “Tác nhân không bị tác
động” (Unmoved Mover) phía sau sự chuyển động liên tục của thế
giới. Phương cách riêng biệt mà người Phật tử mô tả cái thức nhận về
bản tính của hiện hữu là nói rằng, mọi vật sinh ra đều tùy thuộc vào
vật gì khác. Hơn nữa, không những mọi vật đều liên tục thay đổi,
nhưng sự thay đổi của chúng cũng kéo kèm theo sự thay đổi nơi các
vật khác.
Sự kiện không gì là vững bền và tự trị được hiểu đẹp nghĩa nhất với
giáo huấn “duyên khởi tương tùy tương tác” (dependent orgination).
Công thức này biểu hiện và minh họa tính “liên kết triệt để” (radical
interconnectedness) giữa mọi sự vật và diễn tả rằng, mọi sự vật hiện
hữu đều phụ thuộc vào các vật khác. Truyền thống Theravada bảo vệ
quan điểm cho rằng, khi thiền định dưới cây Bồ đề, Đức Phật tương lai
đã thấu hiểu bản tính “duyên khởi tương tùy tương tác” của vạn vật
qua câu chữ “Chuỗi dây nhân quả mười hai mắt xích” (thường gọi:
Thập nhị nhân duyên hay Thập nhị duyên khởi). Ta hãy liệt kê ra
đây tên gọi cùng với mối liên hệ của chuỗi dây nhân quả này [được
biên dịch cho dễ hiểu và rõ ràng hơn, ND]: