giác, được tính cả trong danh sách các giác quan, theo Phật giáo), cũng
như các đối tượng tương ứng ở thế giới bên ngoài.
(2) Cái Uẩn thứ hai là cảm xúc hay cảm thọ, được gọi là Thọ
(vedana, sensation), tiến trình sinh lý học phát xuất từ sự giao tiếp
giữa sắc và sắc (hình tượng và hình tượng) hay các giác quan với
những đối tượng tương ứng của chúng. Cảm thọ được cấu thành như
khi mắt tiếp xúc với các vật hữu hình, tai với thanh âm, lưỡi với vị
giác, mũi với mùi, thân xác với các vật đụng chạm được, trí khôn với
những vật tinh thần như tư tưởng. Những cảm thọ này có ba loại: thú
vị, không thú vị và trung tính.
(3) Cái Uẩn thứ ba là nhận thức hay ý tưởng, được gọi là Tưởng
(samjna, perception). Khi sáu quan năng tiếp giao với các đối tượng
của chúng, thì phát sinh ra cảm thọ, và cảm thọ đưa đến nhìn nhận đối
tượng. Khi ta sờ chạm cái bàn với bàn tay hay với đôi mắt, thì không
những cảm xúc được cấu thành, mà còn cả hiệu quả của cảm xúc tức
sự nhìn nhận được đó là “cái bàn”. Nhận thức cũng được cấu thành
trong giao tiếp với các đối tượng tâm thần. Do đó, nhận thức gồm sáu
loại nhận thức tương ứng với sáu loại cảm thọ.
(4) Cái Uẩn thứ tư là những tác hành tâm thần, được gọi là Hành
(samskara, mental formations). Tác hành tâm thần bao hàm dự cảm,
xung lực, thái độ, khuynh hướng, tất cả phối hợp làm thành đặc tính cá
biệt của bản vị con người. Điều được biết như là Nghiệp cũng được
bao hàm trong Uẩn tác hành tâm thần. Chỉ cảm thọ và nhận thức mà
thôi thì chưa tác thành nghiệp lực, nhưng những tác hành tâm thần thì
có liên kết với các hoạt động của ý chí trong tư tưởng, lời nói, hành
động − cả tốt và xấu, như khôn ngoan và tự đại. Những tác hành tâm
thần đóng một vai trò chìa khóa trong việc tạo tác sự hiện hữu có điều
kiện [bị chi phối] của chúng ta, và do đó cần bàn sâu rộng thêm, điều
này sẽ được tiếp tục nói đến sau khi trình bày xong Uẩn thứ năm sau
đây.