Vậy chúng ta phải làm gì về thân phận khổ đau của con người theo
suy tư của Phật giáo? Có thể nào tránh thoát khỏi cảm nghiệm sự đau
khổ, và nếu có thể được thì bằng cách nào? Những câu hỏi này đưa ta
đến Diệu Đế thứ ba và thứ tư. Đức Phật không để những kẻ theo
chân Ngài trong tình trạng vô vọng. Hơn thế nữa, Ngài khẳng định có
một tình trạng lành mạnh vượt xa ngoài sự lo âu hiện thực của khổ
đau, của dukkha.
3) Diệu Đế thứ ba: Diệt Đế [nirodha-satya, chân lý về sự chấm dứt
đau khổ; nirodha: chấm dứt] khẳng định có một sự chấm dứt đau khổ,
dĩ nhiên liên hệ đến sự chấm dứt lòng tham dục. Và như thế, Diệu Đế
thứ ba phủ quyết Diệu Đế thứ nhất, tức không còn đau khổ; cũng vì
vậy, điều quan trọng là nhìn xem các giáo huấn của Đức Phật có lợi
ích bao lâu chúng có thể ứng dụng được.
Trạng thái tối hậu của Phật giáo liên hệ đến Niết bàn (Nirvana). Từ
Nirvana theo văn tự có nghĩa là thổi, tắt, như thổi lửa, tắt đèn. Trong
mạch văn hiện hành của chúng ta, Nirvana liên hệ đến sự dập tắt đau
khổ bằng cách dập tắt ngọn lửa tham lam (tanha). Như thế sẽ đưa đến
trạng thái phúc hạnh của Nirvana, Niết bàn. Một khi tham lam được
dập tắt, thì đau khổ biến đi, và hiệu quả là Niết bàn. Đó là mục đích
cao nhất của việc thực hành Phật giáo, và có lẽ đó cũng là tất cả những
gì có thể nói được về Niết bàn
Các thư văn Phật giáo luôn luôn nhắc nhủ rằng, Niết bàn không bao
giờ có thể định nghĩa được một cách trọn vẹn với các ngôn từ. Mô tả
Niết bàn cho kẻ nào chưa hề sinh nghiệm được nó, thì được nói giống
như một con rùa mô tả cho một con cá, tản bộ trên đất khô thì giống
như cái gì. Không có gì trong kinh nghiệm của con cá có thể làm cho
nó hiểu được đất khô là cái gì. Cũng tương tự như thế với Niết bàn,
điều hoàn toàn xa lạ với kinh nghiệm thường ngày. Nhưng mặc dầu
với những cảnh báo như thế, cũng đã có một số cố gắng tìm cách định
nghĩa Niết bàn.