nên tâm thức có được kỷ cương; nhưng trong mỗi trường hợp thì hành
động theo lý tưởng vẫn giống nhau.
2) Con đường cư sĩ: Nhưng theo đuổi con đường toàn thiện của
hiện hữu đòi hỏi môi trường có kiểm soát của tu viện và sự hỗ trợ của
cư sĩ ngoài tu viện. Cư sĩ Phật giáo bao gồm những kẻ đã chấp nhận
năm giới luật Phật giáo, nhưng không nhằm mục đích cao hơn là Niết
bàn ở ngay đời này; đúng hơn, họ nỗ lực cải thiện cái nghiệp của họ ở
đời này và đời sau nhờ phát sinh ra công đức cho nghiệp lành. Như
vậy, thực sự có hai chủ đích trong xã hội Phật giáo: Niết bàn được các
tu sĩ chủ động theo đuổi, trong khi giới cư sĩ nhằm đặt nền móng để
đạt được Niết bàn trong cuộc sống sau này nhờ tích trữ công đức trong
cuộc sống bây giờ.
Mối tương quan giữa tu sĩ và cư sĩ là mối tương quan hỗ trợ lẫn
nhau. Giới cư sĩ dâng cúng cho giới tu sĩ những phương tiện của cải
vật chất như thức ăn và áo quần, ngược lại giới tu sĩ cung ứng cho giới
cư sĩ ít nhất là ba điều quan trọng: giảng dạy về Phật pháp, gương
hạnh về đời sống, và tạo hoàn cảnh cho việc công đức. Các tu viện
Phật giáo ở Sri Lanka và ở Đông Nam Á thường được xây cất gần các
khu dân cư để giản tiện cho các cuộc di hành khất thực mỗi ngày của
các tu sĩ. Tu viện thường được đều đặn mở cửa cho cư sĩ để họ nghe
được kinh nguyện của các tu sĩ, nghe thuyết pháp về cuộc sống và
giáo lý nhà Phật, cũng như nhận được những giáo huấn về năm giới
luật: không sát hại, không trộm cắp, không gian dối, không sử dụng
chất gây nghiện, không tà dâm. Bằng cách này, giới tu sĩ trong vai trò
người giảng dạy có thể tích cực ảnh hưởng trên lối sống của xã hội cư
sĩ Phật giáo.
Thêm vào đó, trong mức độ các tu sĩ Phật giáo nắm giữ bộ Luật
tạng (Vinaya) hay giới luật tu trì, thì họ có thẩm quyền tự khẳng định
là những kẻ kế thừa chính đáng của con đường linh đạo đã được Đức
Phật thể hiện. Khi biểu hiện điều đó một cách công khai thông qua các
nghi lễ, thì các tu sĩ công bố một cách chính thức sự hiện diện vĩnh