với vị A-la-hán, kẻ trong văn mạch này được đặc tả như một tăng sĩ
kiêu sa, lạnh lùng và tập trung tự ngã.
Ngoài ra, khái niệm về Pháp, hay giáo huấn của Đức Phật, thì rất
được quảng bá lan rộng. Nếu Đức Phật hiện hữu chỉ ở miền Bắc Ấn
Độ vào thế kỷ thứ VI TCN, thì giáo huấn của Ngài có hạn và được bổ
sung sau khi chết. Nhưng đàng khác, nếu Đức Phật hiện hữu trong mọi
thời, thì giáo huấn của Ngài lại vô hạn và tiếp tục trong mọi thời. Do
đó, khái niệm Pháp sẽ là giáo huấn liên tục của một sinh thể có mặt ở
khắp nơi. Nhiều Kinh Đại thừa khẳng định đưa ra một giáo huấn chỉ
khi thời gian và nơi chốn thích hợp cho sự khải thị của trí huệ tiên
tiến. Kinh Liên Hoa nhìn xem Pháp là “vô hạn, vô biên, chưa hề có”
(LS 52), và vô cùng thay đổi cho thích ứng với muôn vàn thay đổi
khác nhau của các dữ kiện của con người. Thêm vào đó, trong khi mục
đích tối cao của Phật giáo Nguyên thủy là sự vượt qua cuối cùng khỏi
thế gian này, thì các thư văn của Phật giáo Đại thừa thường nói đến sự
thể hiện “Phật tánh”. Mà cả khi ngôn từ Niết bàn được sử dụng, thì nó
cũng được hiểu rất khác biệt với nhau.
Một trong những khẳng định kinh hoàng của Phật giáo Đại thừa là
mục đích tối thượng của Niết bàn (Nirvana) và Sanh tử luân hồi
(Samsara) là một [Niết bàn là Luân hồi, Luân hồi là Niết bàn, nirvana
là samsara, samsara là nirvana]. Kinh Liên Hoa diễn tả: “Mọi hiện
hữu, từ khởi đầu, đã từng có bản tính Niết bàn” (LS 66). Do đó, một
số trường phái Phật giáo Đại thừa có quan điểm về ý thức cách nào đó
khác với quan điểm được trình bày trong các thư văn của Phật giáo
Nguyên thủy. Các trường phái này khẳng định, trước khi bị tác nhiễm
bởi các ảnh hưởng gây điều kiện và làm méo mó của các hoạt động
tâm thần và những vấy bẩn của chúng, thì ý thức đã hiện hữu trong
yếu tính chân thực của nó như một ánh sáng tinh trong và giác ngộ
làm nền tảng cho Phật tánh. Vì vậy, mục đích nay là khơi tỏ ra điều gì
đã có nơi đó. Niết bàn được nói là không thể đạt được ít nhất bởi hai
lý do: một, bởi nó không phải là một vật khách quan hay một mục