người với trí khôn của mình − ít nữa là với những người có nhiều khả
năng trong họ − có thể đạt được sự hiểu biết về thế giới Ý thể. Khía
cạnh nhận thức luận của học thuyết này là chỉ có sự hiểu biết thông
minh về Ý thể mới đích đáng được kể là tri thức. Platon bàn luận về
Bản tính con người trong nhiều Đối thoại, nhưng trong Cộng hòa,
chúng ta gặp luận điểm rằng, chỉ có những gì hiện hữu đầy đủ và thực
sự mới có thể được biết đầy đủ và thực sự: nhận thức những đối tượng
vô thường và những sự kiện của thế giới vật chất thì chỉ là “tin” hay “ý
kiến”, chứ không phải tri thức (476-480). (Platon giải thích cặn kẽ
những đặc điểm kỹ thuật của Ẩn dụ hang động của ông cho thích ứng
với cấu trúc chi tiết của học thuyết tri thức của mình: Những người tù
nhìn thấy những bóng hình được một ngọn lửa chiếu rọi lên vách từ
những vật giả tạo (artifacts) di động trong hang, trong khi ngoài trời
mới là những vật đích thực rọi chiếu bóng mình ra dưới ánh sáng mặt
trời).
Một trong những minh họa sáng tỏ nhất trong học thuyết Ý thể đến
từ lý luận hình học mà Platon quen thuộc và Euclid sau này sẽ hệ
thống hóa. Chúng ta nghĩ xem, khi ta làm hình học, chúng ta nghĩ đến
đường thẳng, hình tròn, hình vuông, mặc dầu không có đối tượng thể
chất hay biểu đồ nào hoàn toàn là thẳng, tròn hay vuông cả. Điều mà
vì lý do thực tế và cũng phần nào vì sự chênh lệch xấp xỉ chả bao
nhiêu mà ta cho là thẳng hay ngang bằng, thực ra khi đối chiếu với
mẫu chuẩn chính xác hơn, chúng cũng không hoàn toàn là thẳng hay
ngang bằng – không đều và khác nhau vẫn luôn có thể xảy ra khi các
sự vật được khảo xét kỹ lưỡng hơn, thí dụ như với một kính hiển vi.
Nhưng ta có thể chứng minh các định lý về các khái niệm hình học −
đường thẳng không độ dày, hình tròn hoàn toàn, hình vuông chính xác
− với hoàn toàn chắc chắn, nhờ bởi các luận cứ diễn dịch. Cũng tương
tự, chúng ta biết các sự thật của số học, hoàn toàn độc lập với sự mơ
hồ hoặc thay đổi của sự vật vật chất mà ta đếm. (1 + 1 = 2 sẽ không vì
hòa trộn hai giọt nước với nhau mà bị bác bỏ!). Như thế, chúng ta xem