dụng lý tính của mình bằng cách thực hành sự tự kiểm một cách thận
trọng, tiết chế những cảm xúc và ham muốn, những diễn đạt và thực
hiện. Nhưng trong những tiết đoạn siêu hình trung tâm của Cộng hòa
(tập V-VII), Platon nhấn mạnh khái niệm lý thuyết cao độ của lý tính
như cốt tại ở một hình thức riêng biệt của tri thức về Ý thể, điều chỉ
mở ra cho một tầng lớp trí thức ưu tú có đào tạo. Sẽ không thật hợp lý,
rằng một tư duy triết học chuyên ngành như thế là điều cần thiết hoặc
đủ tầm cho đức hạnh thiện hảo của con người.
HỌC THUYẾT VỀ BẢN TÍNH CON NGƯỜI:
CẤU TRÚC BA THÀNH PHẦN CỦA LINH HỒN
Platon là một trong những nguồn tư tưởng cho quan điểm Nhị
nguyên, theo đó Linh hồn (soul) hay Lý trí, tinh thần (mind) của
con người (những từ này ở đây được dùng như những từ đồng nghĩa)
là một thực thể phi vật chất có thể hiện hữu ngoài thể xác. Theo
Platon, linh hồn hiện hữu trước khi ta sinh ra, nó là bất diệt, và sẽ hiện
hữu trường tồn sau khi ta chết. Những luận cứ chính của Platon cho
học thuyết này được trình bày trong những Đối thoại ban đầu. Trong
Đối thoại Menon, Platon tìm cách chứng minh sự tiền hiện hữu của
linh hồn, bằng cách lý luận rằng, điều mà chúng ta gọi là học thực ra
chỉ là một cách “nhớ lại” sự hiểu biết của linh hồn được giả định là đã
có thông qua các Ý thể trước khi sinh (một phiên bản của học thuyết
tái sinh từ phương Đông). Những người với trí khôn bình thường, thí
dụ như một chàng nô lệ trẻ, có thể giúp hiểu được những mệnh đề toán
học (ít là những mệnh đề đơn giản) và nhận thức được tại sao những
mệnh đề đó là đúng, khi được hướng dẫn chú ý vào những bước lập
luận. Platon nói khá hợp lý rằng khả năng tinh thần nhận biết giá trị
của những bước đi suy luận và sự tất yếu của kết luận là bẩm sinh.
Nhưng rồi Platon đưa ra một khẳng định gây tranh cãi rằng, những khả
năng bẩm sinh như thế chỉ có thể giải thích được bằng tri thức của linh
hồn về những Ý thể trong cuộc sống kiếp trước. Ở đây chúng ta có thể