xác ta. Nhưng ngược lại, đôi khi chúng ta lại nhượng bộ làm theo
những dụ dỗ như nhận điếu thuốc đưa mời, bánh kem thứ hai, ly rượu
thứ ba, hay một chàng trai tán tỉnh, mặc dầu ta biết hậu quả có thể
không hay cho ta. Thói quen xấu có thể, như ta biết, trở nên nghiện
ngập: tham ăn (hoặc, ngày nay, biếng ăn), rượu chè, ma túy, săn đuổi
tìm tòi bạn tình dục. Platon lý luận rằng, nơi đâu có sự xung đột nội
tâm, nơi đó phải có hai yếu tố khác nhau với xu hướng đối nghịch.
Trong trường hợp người khát nước, phải có yếu tố làm cho y muốn
uống và yếu tố thứ hai ngăn cấm y. Platon gọi yếu tố thứ nhất là “ham
muốn” (“Appetite”, trong đó gồm mọi nhu cầu thể xác, như đói, khát,
sinh lý) và yếu tố thứ hai là “lý tính” (“reason”).
Đến đây, Platon vận động trên nền đất quen thuộc. Nhưng Platon lại
còn lý luận cho thêm một yếu tố thứ ba nữa trong Bản tính con người
chúng ta, bằng cách nghiệm xét những trường hợp khác nhau trong
cuộc xung đột tâm thần. Thí dụ đầu tiên có vẻ kỳ quặc: Câu chuyện
một người cảm thấy có một ham muốn mê hoặc nhìn vào một đống
thây người và rồi kinh tởm với chính mình vì đã có một ham muốn
như thế (440). Platon cho rằng, để giải thích những trường hợp như
vậy, ta cần nhìn nhận sự hiện hữu trong ta một yếu tố thứ ba mà ông
gọi là “tinh thần” (“Spirit”) hay đam mê (passion, 440). Luận chứng
của Platon cho giải thích trên đây không được rõ ràng, nhưng dường
như bởi có một cảm xúc kinh tởm chính mình chen vào, không phải
một sự nhìn nhận của trí óc về sự phi lý hay sự không đáng ưa thích
của ham muốn, “tinh thần” (Spirit) cần được phân biệt với lý tính.
Chúng ta hẳn có thể đồng ý cho rằng cảm xúc thì khác với ham
muốn thể xác cũng như khác với phê phán thuần lý hay đạo đức. Tình
yêu không phải cũng một loại như ham muốn, nhưng đàng khác nó
cũng nhiều hơn một phê phán đơn thuần trí óc về những phẩm tính
tuyệt vời của người mình yêu. Giận dữ, phẫn nộ, tham vọng, gây hấn,
ham muốn quyền lực, tất thảy đều không phải là những ham muốn thể
xác, chúng cũng không phải chỉ đơn thuần là phê phán về giá trị hay