đối với một giá xã hội phải trả. Trong nhiều nước Muslim, Đạo Islam
cũng giữ một vị trí thống trị tương tự. Trong những nước Công giáo
truyền thống (như Ý, Cộng hòa Ireland và Ba Lan), Giáo hội Công
giáo Roma thực thi một ảnh hưởng xã hội quan trọng và giới hạn
chính sách của Nhà nước về phá thai, tránh thụ thai và li dị. Tại Hợp
Chủng Quốc Hoa Kỳ, đạo đức Kitô giáo Tin Lành chế ngự phần lớn
các cuộc tranh luận công cộng và ảnh hưởng trên các chính sách, mặc
dầu Hiến pháp chủ trương sự tách biệt giữa Giáo hội và Nhà nước.
Một Triết lý “hiện sinh” như của Sartre xem ra như không có liên
quan đến xã hội; nhưng dẫu vậy người ta vẫn có thể biện hộ cho nền
dân chủ “tự do” (“liberal” democracy) hiện đại dựa trên quan điểm
triết học cho rằng, tuy không có những giá trị khách quan cho cuộc
sống, nhưng lại đã có những lựa chọn cá nhân chủ quan. Sự khẳng
định này có ảnh hưởng lớn trong xã hội phương Tây hiện đại, xa hơn
sự bày tỏ riêng tư của nó trong triết học hiện sinh Âu châu giữa thế kỷ
XX. Nền dân chủ tự do được ghi lại trong Tuyên ngôn Độc lập Hoa
Kỳ, với sự nhìn nhận của nó về quyền của mỗi một con người (“man”,
có nghĩa “person”) về “sự sống, tự do và theo đuổi hạnh phúc” −
thường được giải thích như là quyền của mỗi cá nhân được theo đuổi
quan niệm của mình (nam hay nữ) về hạnh phúc. Nhưng cũng cần
phải ghi nhận rằng, cả những ai tin có những chuẩn mực luân lý khách
quan (tôn giáo hay thế tục), thì họ vẫn còn có thể bảo vệ một hệ thống
chính trị tự do, nếu họ nghĩ sẽ là bất công hay thiếu khôn ngoan khi có
sự tìm cách áp đặt những chuẩn mực luân lý nói trên. Như vậy, nếu
tính chủ quan về các giá trị có hỗ trợ sự tự do chính trị, thì điều ngược
lại là không [?].
Chúng ta hãy bàn kỹ hơn về vấn đề Kitô giáo và Chủ nghĩa
Marxist như những chủ thuyết đối nghịch về Bản tính con người, và
ghi nhận một số tương tự trong cấu trúc giữa hai chủ thuyết đó.
(Những khảo sát trong chi tiết của chúng ta đã được trình bày trong
chương 6 và 9). Mặc dầu hai học thuyết này hoàn toàn khác nhau