họ làm môn đồ của mình: trong vấn đề này, có lẽ Ngài là một con
người của thời bấy giờ, một giảng sư Do Thái. Paulus nói, trong Đấng
Christ, không có Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, nam hay nữ
(Galatians 3:28), và xem như ông còn hỗ trợ chế độ gia trưởng khi
ông viết, vợ phải phục tùng chồng mình (Ephesians 5:22; xem thêm 1
Corinthians 11:8-9, trong đó ông tham chiếu câu chuyện tạo thành thứ
hai trong sách Sáng thế). Paulus cũng đòi hỏi người phụ nữ phải lấy
khăn che đầu trong nhà thờ. Từ bấy đến nay, nhiều nhà tư tưởng Kitô
giáo đã đưa chủ đề phụ nữ ra thành những vấn đề thần học, và nay ta
còn chứng kiến những cuộc tranh luận tiếp diễn về vấn đề phong chức
thánh cho phụ nữ.
Vấn đề phân biệt giữa Cuộc sống trên bình diện bản tính cũ và
Cuộc sống trên bình diện tinh thần hay thần khí phải được thực hiện
chỉ trong đời này, hay cả trong cuộc đời sau khi chết? Ở đây, có một
sự sai biệt giữa một giải thích thuần tâm linh về Kitô giáo và một
phiên bản siêu nhiên hay cánh chung (thế mạt, “eschatological”: liên
hệ đến việc cùng tận của thế giới, “the last things”). Đức Jesus được
cho biết là đã công bố sự đang đến của “Nước Trời” hay “Vương quốc
của Thượng đế” (Matthew 4:17; 23; Mark 1:15). Nhưng không rõ,
điều đó có nghĩa một thay đổi tâm lý hay chính trị hay siêu hình (hình
như điều đó cũng không rõ đối với các môn đồ của Ngài). Câu “sự
sống đời đời” (“eternal life”, “everlasting life”) thường được dùng
trong Tin Mừng John, khi Đức Jesus được mô tả là loan báo sự sống
đời đời cho những ai tin vào Ngài (John 3:16), cho những ai “sinh lại”
(“born again”). Nhưng chúng ta không cần thiết phải nhảy xô vào kết
luận, rằng những câu chữ này muốn chỉ sự tiếp nối cuộc sống con
người sau khi chết. Có thể chăng những câu ấy có nghĩa một cách
sống mới và tốt hơn trong cuộc đời này − một cách sống đích đáng
liên hệ với những sự thật và những giá trị vĩnh cửu?
Một số thư văn của Paulus có thể được hiểu trong nghĩa này. Ta hãy
xem đoạn văn sống động trong Galatians 5:16-25 [xem đoạn đầu tiết