mạng tư sản, được tiếp nối gần sau đó bởi một cuộc cách mạng vô sản.
Và ông thấy những tư tưởng cộng sản có thể được nhập lưu vào các
nước, nơi có một giới vô sản tương đối nhỏ, nhưng kết hợp với giới
nông dân nghèo, có thể giành lấy quyền lực từ giai cấp quyền lực
truyền thống. Trong một nước Nga bị chiến tranh tàn phá, những
người Bolsheviks dưới sự lãnh đạo của Lenin quả thật đã làm một
cuộc cách mạng như thế vào tháng 10 năm 1917, nửa năm sau cuộc
cách mạng tư sản đánh đổ Nga hoàng cuối cùng. (Ta khó có thể gọi sự
áp đặt luật Xô Viết trên Đông Âu do Hồng Quân cuối Thế chiến thứ
Hai là một cuộc cách mạng vô sản).
Nhưng đã không có cách mạng trong các nước tư bản tiên tiến. Hệ
thống kinh tế tư bản trong tổng thể đã ổn định hơn (với một số ngoại
lệ đáng kể, như cơn Đại Suy thoái những năm 1930; và chúng ta cũng
đã thấy sự bất ổn tài chính trong thế kỷ XXI). Các điều kiện sinh sống
của phần lớn dân chúng đã được cải thiện rộng rãi so với tình trạng
thời Marx, và sự phân chia giai cấp đã được giảm bớt hơn là tăng
thêm. Và nay thấy có nhiều hơn những công nhân bàn giấy, những
công chức chính phủ, những trợ lý y khoa, những giáo viên, giáo sư,
luật gia, luật sư... − những người vừa không phải là lao động chân tay
mà cũng không phải là chủ sở hữu công nghiệp, doanh nghiệp.
Sự việc cách mạng cộng sản không xảy ra tại Tây Âu và Hợp chủng
quốc Hoa Kỳ xem ra như là một sai lầm lớn của học thuyết lịch sử của
Marx. Nó không thể giải thích cách nào khác hơn là nói rằng, giai cấp
vô sản đã bị “mua chuộc” bởi những nhượng bộ bằng đồng lương cao
hơn − bởi Marx đã tiên đoán số phận của họ sẽ xấu hơn. Chủ nghĩa tư
bản không kiềm chế của thế kỷ XIX mà Marx biết, với những điều
kiện nghiệt ngã đối với giai cấp công nhân, gồm cả lao động trẻ con,
dịch bệnh và cuộc sống ngắn ngủi đã chấm dứt rộng rãi ở phương Tây
(mặc dầu lại là một chuyện khác ở phần còn lại trên thế giới). Qua
những đầu tư gián tiếp, như quỹ lương hưu, nhiều người nay có được